BC giám sát cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

Thứ tư - 27/09/2017 03:21 3.910 0
Thực hiện Nghị quyết số 14/2016/QH14 ngày 27/7/2016 của Quốc hội về chương trình hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2017, Nghị quyết số 20/2016/QH14 ngày 28/7/2017 của Quốc hội về thành lập Đoàn giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016” và Kế hoạch số 01/KH-ĐGS ngày 30/11/2016 của Đoàn Giám sát Quốc hội về Kế hoạch chi tiết thực hiện giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016”, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Đoàn giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.
Đoàn giám sát do ông Hoàng Đức Thắng, ủy viên Ban thường vụ Tỉnh ủy, Trưởng Đoàn đại biểu Quốc hội chuyên trách làm Trưởng Đoàn cùng các đại biểu Quốc hội ở địa phương. Đại diện lãnh đạo Ban Pháp chế HĐND tỉnh, Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh, Sở Nội vụ mời tham gia thành viên Đoàn giám sát.
Đoàn đã nghiên cứu, đánh giá báo cáo của UBND tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Nội vụ, UBND thành phố Đông Hà; tổ chức làm việc với lãnh đạo các đơn vị, địa phương liên quan nói trên.
Đoàn đại biểu Quốc hội báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị như sau:
PHẦN I
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ CẢI CÁCH
BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011 – 2016  Ở ĐỊA PHƯƠNG
I. Chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016 ở địa phương.
1. Khái quát việc ban hành văn bản pháp luật để phục vụ việc cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương.
Trên cơ sở những chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, trong giai đoạn 2011-2016, các cơ quan có thẩm quyền ở tỉnh đã ban hành 58 văn bản pháp luật để cụ thể hóa chủ trương, chính sách nói trên (14 Nghị quyết, 01 Chỉ thị, 02 Chương trình hành động, 20 Quyết định quy phạm pháp luật, 17 Quyết định cá biệt, 01 Đề án, 02 Kế hoạch, 02 Hướng dẫn).
Nhìn chung, các văn bản về cải cách bộ máy hành chính nhà nước đã được ban hành kịp thời, đảm bảo đúng thẩm quyền, căn cứ pháp lý, trên cơ sở các quy định của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đồng bộ, thống nhất theo đúng tinh thần cải cách hành chính.
Cụ thể, đã quy định sát nhập một số phòng chuyên môn hoặc không thành lập mới các chi cục trực thuộc các sở; quy định số lượng phòng thuộc chi cục, số lượng cấp phó trong các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của các sở, ban, ngành; ban hành các nghị quyết, quyết định, đề án về việc sáp nhập, tổ chức lại các trường tiểu học, trung học cơ sở dưới 10 lớp, hệ thống các trung tâm dạy nghề, trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên; tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp y tế, hệ thống văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, các ban quản lý dự án đầu tư xây dựng.... nhằm thực hiện tinh gọn tổ chức, thu gọn đầu mối, giảm biên chế, số người làm việc, đồng thời nâng cao hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ.
Qua rà soát, kiểm tra, giám sát không phát hiện trường hợp văn bản về cải cách bộ máy hành chính nào sai phạm.
2. Tác động, ảnh hưởng của việc ban hành chủ trương, chính sách và việc cụ thể hóa bằng các văn bản của địa phương đến quá trình cải cách tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương.
Việc ban hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và việc cụ thể hóa các văn bản liên quan đến cải cách tổ chức bộ máy hành chính của địa phương đã có những tác động, ảnh hưởng tích cực đến quá trình cải cách tổ chức bộ máy hành chính ở địa phương như sau:
- Xây dựng được cơ cấu tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã bảo đảm tinh gọn, khắc phục được sự cồng kềnh, chồng chéo, hoạt động kém hiệu quả của tổ chức bộ máy, góp phần tạo bước chuyển biến về đổi mới phương thức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền.
- Tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có số lượng phù hợp, có trình độ, năng lực đáp ứng được yêu cầu thực hiện nhiệm vụ; tạo động lực để đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức không ngừng trau dồi về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như đạo đức nghề nghiệp, có trách nhiệm cao với công việc được giao. Đồng thời, góp phần định hướng nghề nghiệp cho các đối tượng lao động; thúc đẩy các cơ sở giáo dục đào tạo cơ cấu, sắp xếp lại các ngành nghề đào tạo phù hợp.
- Việc thực hiện cơ chế tự chủ đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý đối với các đơn vị sự nghiệp; đã tạo điều kiện cho đơn vị chủ động  và tiết kiệm sử dụng nguồn lực tài chính, con người, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao. Cơ chế tự chủ tạo điều kiện cho đơn vị sự nghiệp thực hiện việc kiểm soát chi tiêu nội bộ, phát huy tính dân chủ, chủ động, sáng tạo của người lao động, nâng cao kỹ năng quản lý, chất lượng hoạt động sự nghiệp và thu nhập của người lao động.
II. Kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016 ở địa phương
1. Khái quát quá trình thực hiện cải cách bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương.
Thực hiện Nghị quyết 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ Ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020, ngày 20 tháng 2 năm 2012, UBND tỉnh Quảng Trị ban hành Quyết định số 263/QĐ-UBND về Kế hoạch cải cách hành chính tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2012 - 2015 với mục tiêu chung là: Xây dựng các cơ quan hành chính nhà nước thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Từ năm 2012 đến năm 2015, UBND tỉnh ban hành Kế hoạch cải cách hành chính hàng năm và có sơ kết, đánh giá việc thực hiện, đề ra kế hoạch cho năm tiếp theo.
Năm 2014, UBND tỉnh đề xuất Ban thường vụ Tỉnh ủy ban hành Chỉ thị số 27-CT/TU ngày 11/12/2014 về tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công tác đẩy mạnh cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2014 - 2020; năm 2013, 2014, UBND tỉnh đề xuất HĐND tỉnh ban hành nhiều nghị quyết liên quan đến cải cách bộ máy hành chính.
Tháng 6 năm 2015, UBND tỉnh có báo cáo sơ kết công tác cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn I (2011 - 2015) và đề ra Phương hướng nhiệm vụ giai đoạn II (2016 - 2020).
2. Kết quả rà soát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, biên chế công chức, số lượng viên chức và người làm việc hiện có của bộ máy hành chính nhà nước (bao gồm cả đơn vị sự nghiệp công lập) trên phạm vi toàn tỉnh.
2.1. Về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương.
a. Đối với các tổ chức hành chính:
Giai đoạn từ 2011- 2014: Sau khi tiến hành sắp xếp, kiện toàn theo hướng thu gọn đầu mối, đa ngành, đa lĩnh vực theo quy định tại Nghị định số 13/2008/ND- CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Nghị định số 14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, số lượng tổ chức hành chính cấp tỉnh, cấp huyện thuộc UBND tỉnh Quảng Trị không có sự thay đổi (19 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, 112 cơ quan chuyên môn cấp huyện).
Giai đoạn từ 2014-2016: Thực hiện Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 thay thế Nghị định số 13/2008/ND- CP, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 thay thế Nghị định số 14/2008/NĐ-CP và các hướng dẫn liên bộ của các Bộ chuyên ngành và Bộ Nội vụ, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành mới quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các sở, ban, ngành; phân cấp cho Sở Nội vụ và các Sở chuyên ngành hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; hướng dẫn UBND cấp huyện thành lập Văn phòng  HĐND và UBND cấp huyện theo quy định của Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015.
Nhìn chung, các Quyết định quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được ban hành kịp thời, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bám sát vào các Thông tư hướng dẫn của Bộ, ngành liên quan và tình hình thực tế của tỉnh, đảm bảo chặt chẽ, rõ ràng và hợp lý, không xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Việc thẩm định, tham mưu UBND tỉnh ban hành văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức được phối, kết hợp chặt chẽ giữa các ngành, đặc biệt là khâu thẩm định của ngành Nội vụ và Tư pháp.
b. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL):
Thực hiện các quy định của Trung ương và địa phương, tỉnh Quảng Trị đã tiến hành sắp xếp, kiện toàn lại hệ thống các ĐVSNCL trên toàn tỉnh, chủ yếu các đơn vị thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo và y tế, nông nghiệp, dạy nghề, lao động và xã hội. Năm 2011, toàn tỉnh có 803 ĐVSNCL. Năm 2016, số lượng ĐVSNCL là 763 đơn vị, giảm 40 đơn vị.
Giai đoạn 2011 - 2016, việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cũng như các phòng, ban cấp huyện và các ĐVSNCL được thực hiện sau khi có Thông tư hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các Bộ, ngành theo chủ trương tinh gọn tổ chức, đồng thời bám sát vào điều kiện thực tế cụ thể của tỉnh để đưa ra các giải pháp nhằm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các ĐVSNCL được rà soát, phân định rõ, không chồng chéo, trùng lắp góp phần nâng cao chất lượng phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước cũng như cung cấp các dịch vụ công.
c. Về việc cân đối giữa yêu cầu, nhiệm vụ và biên chế:
Nhìn chung, biên chế Bộ Nội vụ phân bổ cho tỉnh Quảng Trị chưa đáp ứng được nhu cầu công việc cho các cơ quan hành chính của tỉnh. Một số ngành có khối lượng công việc lớn (Nông nghiệp, Tài nguyên – Môi trường, Giao thông vận tải...) theo định mức quy định cần số lượng biên chế lớn tuy nhiên hiện vẫn chưa được bổ sung, dẫn đến khó khăn trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước của các cơ quan.
d. Về phân cấp quản lý nhà nước:
UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định về thực hiện phân cấp một số lĩnh vực về tổ chức bộ máy, biên chế, tuyển dụng và quản lý công chức, viên chức (Quyết định số 19/2013/QĐ-UBND ngày 15/7/2013); về phân cấp quản lý tiền lương (Quyết định số 33/2014/QĐ-UBND ngày 31/7/2014); về quản lý các tổ chức hội (Quyết định số 04/2014/QĐ-UBND ngày 16/01/2014), theo đó, UBND tỉnh đã đẩy mạnh phân cấp đến các Sở, ngành, các cấp nhằm giảm áp lực đối với các cơ quan cấp trên và đề cao trách nhiệm, tính chủ động của cơ quan, đơn vị cấp dưới, đồng thời làm rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước và chức năng quản trị của từng cơ quan, đơn vị.
2.2. Về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương
Tổ chức bộ máy ở các cấp số lượng cụ thể như sau:
 
STT Tổ chức bộ máy Năm 2011
(đơn vị)
7/2016
(đơn vị)
12/2016
(đơn vị)
Ghi chú
1 Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh 19 19 19  
2 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND tỉnh 2 3 3 Nâng cấp Trường TC y tế trực thuộc Sở Y tế thành Trường Cao đẳng y tế trực thuộc UBND tỉnh
3 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh 137 123 113  
4 Cơ quan chuyên môn cấp huyện 112 112 112  
5 Đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND cấp huyện 520 516 506  
6 Đơn vị cấp xã 141 141 141  
a) Đối với tổ chức hành chính:
Giai đoạn từ 2011- 2014: Số lượng cơ quan chuyên môn cấp tỉnh là 19 cơ quan. Số lượng cơ quan cấp huyện là 112.
Giai đoạn từ 2014-2016: Thực hiện Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP và các hướng dẫn liên bộ của các Bộ chuyên ngành và Bộ Nội vụ, số lượng các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện không có sự thay đổi (19 cơ quan cấp tỉnh, 112 cơ quan cấp huyện).
Như vậy, trong giai đoạn 2011- 2016, số lượng các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện không có sự biến động, cơ cấu tổ chức bên trong các cơ quan được sắp xếp, kiện toàn theo hướng tinh gọn hơn. Qua rà soát, kiện toàn, năm 2016, số lượng chi cục và tương đương, phòng, ban chuyên môn thuộc các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh so với năm 2011 tuy tăng 03 tổ chức (Năm 2011: 16 chi cục và tương đương, 137 phòng chuyên môn; năm 2016: 17 chi cục và tương đương, 139 phòng chuyên môn) nhưng so với quy định của Trung ương, tỉnh đã tinh gọn được 12 phòng chuyên môn và 03 chi cục thuộc các sở, ban, ngành trên cơ sở sát nhập một số phòng chuyên môn tương đồng về chức năng, nhiệm vụ hoặc có khối lượng công việc ít và không thành lập mới chi cục khi phòng chuyên môn đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ.
b) Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập:
Từ năm 2011-2016, thực hiện các quy định của Trung ương và địa phương, tỉnh Quảng Trị đã tiến hành sắp xếp, kiện toàn lại hệ thống các ĐVSNCL trên toàn tỉnh. Theo đó, trong giai đoạn này, số lượng các ĐVSNCL giảm 40 đơn vị, trong đó, chủ yếu giảm ở các đơn vị thuộc lĩnh vực giáo dục, đào tạo và y tế, tăng một số đơn vị thuộc các lĩnh vực nông nghiệp, lao động và xã hội. Cụ thể:
- Lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Giảm 27 đơn vị do sáp nhập một số trường cùng cấp học có quy mô nhỏ trên cùng một địa bàn xã, phường, thị trấn, đảm bảo bố trí đủ đội ngũ giáo viên theo định mức quy định, nâng cao hiệu quả trong công tác giảng dạy; qua sáp nhập, kiện toàn, từ 2015 đến nay số lượng các trường trung học phổ thông, tiểu học và trung học cơ sở giảm 11 đơn vị.
Tiến hành sáp nhập 25 Trung tâm dạy nghề, Trung tâm giáo dục thường xuyên, Trung tâm kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp công lập thành 09 Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp- Giáo dục thường xuyên tại 09 huyện, thị xã, thành phố theo quy đinh tại Thông tư liên tịch số 39/2015/TTLT-BLĐTBXH-BGDĐT-BNV ngày 19/10/2015 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ.
- Lĩnh vực y tế: Giảm 08 đơn vị do kiện toàn, sắp xếp lại các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Y tế, theo đó đã giảm 10 đơn vị (08 Trung tâm Y tế huyện sáp nhập vào Bệnh viện huyện; Trung tâm Phòng chống HIV/AIDS và Khoa tâm thần, da liễu thuộc Trung tâm Phòng, chống bệnh xã hội sáp nhập vào Trung tâm Y tế dự phòng tỉnh), tăng 02 đơn vị (Bệnh viện Chuyên khoa Loa và Bệnh phổi; Trung tâm Mắt được thành lập mới trên cơ sở tổ chức lại Khoa Mắt của Trung tâm Phòng chống bệnh xã hội tỉnh để tiến tới thành lập Bệnh viện chuyên khoa mắt).
- Số lượng các ĐVSNCL giảm ở một số lĩnh vực khác: Giảm 09 Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất cấp huyện do hợp nhất với Văn phòng Đăng ký Quyền sử dụng đất tỉnh thành Văn phòng Đăng ký đất đai một cấp theo quy định; giảm một số ĐVSN thuộc UBND tỉnh: Ban Quản lý Xây dựng CSHT tỉnh; Ban Quản lý thủy điện, thủy lợi; Ban Quản lý các Khu Du lịch tỉnh.
UBND tỉnh cũng đã thành lập mới 09 đơn vị sự nghiệp: Trung tâm Phát triển quỹ đất tỉnh; Phòng Công chứng số 2; Trung tâm Quy hoạch và Kiếm định chất lượng xây dựng; Trung tâm Y tế Quân – dân y huyện đảo Cồn Cỏ; Trung tâm Chữa bệnh - Giáo dục - Lao động - Xã hội; Trung tâm Quản lý và Khai thác cơ sở hạ tầng khu kinh tế, khu công nghiệp; Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Bắc Hướng Hóa, Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên Đakrông, Ban Quản lý Khu bảo tồn biển đảo Cồn Cỏ.
Bên cạnh đó, thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập, UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 4523/KH-UBND ngày 19/11/2015 về triển khai thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập thuộc tỉnh Quảng Trị, đồng thời thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, Ban Chỉ đạo đã ban hành văn bản hướng dẫn các sở, ban, ngành lập Quy hoạch mạng lưới các ĐVSNCL; UBND tỉnh cũng đã chỉ đạo Sở Tài chính phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Danh mục dịch vụ sự nghiệp công trên cơ sở hướng dẫn của các Bộ, ngành Trung ương.
Việc sắp xếp, kiện toàn, thành lập và điều chỉnh số người làm việc trong các ĐVSNCL giai đoạn 2011-2016 thực hiện theo đúng quy định pháp luật, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
2.3. Biên chế công chức, số lượng viên chức và người làm việc trong bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương
Số biên chế được Bộ Nội vụ giao cho tỉnh Quảng Trị từ năm 2011 đến năm 2016, cụ thể như sau:
 
  Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm
 2014
Năm
2015
Năm 2016
Số biên chế hành chính 2.005 2.010 2.010 2.010 1.975 1.945
So sánh số lượng biên chế với số đầu mối các đơn vị bên trong của mỗi cơ quan hành chính nhà nước:
Năm 2011: Tổng biên chế hành chính giao là: 2.005 biên chế, trong đó:
- Biên chế giao cho cơ quan sở, ban, ngành: 720 biên chế
+ Số cơ quan sở, ban, ngành: 21 cơ quan, bình quân mỗi cơ quan giao 34,2 biên chế (cơ quan được giao cao nhất là Sở Giáo dục và Đào tạo (55 biên chế); cơ quan được giao thấp nhấp là Sở Ngoại vụ và Sở Tư pháp (19 biên chế));
+ Số phòng, ban thuộc sở, ban ngành: 137 phòng, bình quân mỗi phòng giao 5,2 biên chế (phòng được giao cao nhất là Phòng Giáo dục trung học thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo (11 biên chế); phòng được giao thấp nhất là Thanh tra Sở Khoa học và Công nghệ (01 biên chế).
- Biên chế giao cho chi cục: 371 biên chế;
+ Số chi cục: 16 chi cục, bình quân mỗi chi cục giao 23 biên chế (chi cục được giao cao nhất là Chi cục Kiểm lâm (142 biên chế), chi cục được giao thấp nhất là Chi cục Vệ sinh an toàn thực phẩm thuộc Sở Y tế và Ban Thi đua khen thưởng thuộc Sở Nội vụ (08 biên chế)).
- Tổng biên chế hành chính giao cho UBND cấp huyện là: 914 biên chế
- Tổng số phòng chuyên môn thuộc UBND cấp huyện là: 112 phòng, bình quân mỗi phòng được giao 8,1 biên chế (phòng được giao cao nhất là Văn phòng HĐND và UBND (14 biên chế); phòng được giao thấp nhất là Phòng Y tế (04 biên chế)).
Số lượng biên chế cơ bản đáp ứng được số đầu mối các phòng, ban trực thuộc các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện. Tuy nhiên, ở một số sở và một số chi cục, biên chế quá ít trong khi số lượng phòng theo quy định của bộ, ngành nhiều nên gặp khó khăn trong việc thực hiện.
Việc quản lý, sử dụng biên chế được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, quán triệt chủ trương phân cấp quản lý biên chế công chức của Chính phủ. UBND tỉnh đã giao trách nhiệm cho Sở Nội vụ chủ trì, phối hợp với các cơ quan, thường xuyên theo dõi, quản lý, kiểm tra, hướng dẫn việc sử dụng biên chế của các cơ quan chuyên môn, các đơn vị trực thuộc UBND tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố. Các cơ quan, đơn vị thực hiện quản lý và sử dụng biên chế theo đúng quy định, đề cao trách nhiệm, chủ động trong việc bố trí, sử dụng hợp lý biên chế ở các phòng, ban trực thuộc, nâng cao hiệu quả công việc và thực hiện đúng chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, đặc biệt các đơn vị, địa phương đã bước đầu gắn việc bố trí biên chế phù hợp với vị trí việc làm.
Kết quả thực hiện chính sách tinh giản biên chế của các cơ quan trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ, UBND tỉnh Quảng Trị đã ban hành Kế hoạch 2083/KH-UBND ngày 09/6/2015 về triển khai thực hiện chính sách tinh giản biên chế từ năm 2015 đến năm 2021 của tỉnh Quảng Trị, đảm bảo từ năm 2015 đến năm 2021 tinh giản tối thiểu 10% biên chế cán bộ, công chức, viên chức so với biên chế được giao năm 2015.
Để triển khai thực hiện Kế hoạch tinh giản biên chế, UBND tỉnh đã ban hành các Quyết định phê duyệt Đề án tinh giản biên chế giai đoạn 2015-2021 cho 100% các cơ quan, đơn vị trong toàn tỉnh (21 sở, ban, ngành và 10 huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và 03 đơn vị sự nghiệp cấp tỉnh).
Theo Quyết định đã phê duyệt, năm 2015 và năm 2016 toàn tỉnh dự kiến thực hiện tinh giản là: 372 chỉ tiêu. Kết quả thực hiện tinh giản biên chế thực tế của năm 2015 và năm 2016 được Bộ Nội vụ thẩm tra và thông báo là: 286 chỉ tiêu và tự cắt giảm do nghỉ hưu đúng tuổi là: 156 chỉ tiêu. Như vậy, so với kế hoạch dự kiến tinh giản biên chế năm 2015 và năm 2016, thì kết quả thực hiện tinh giản biên chế thực tế của toàn tỉnh đạt 118% (vượt 18% so với kế hoạch đã đề ra).
Việc thực hiện tinh giản biên chế trên địa bàn tỉnh Quảng Trị bảo đảm đúng nguyên tắc và trình tự các bước thực hiện; việc sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức dựa trên sự lựa chọn những người có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt giữ lại làm việc lâu dài, ổn định; đưa ra khỏi bộ máy cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp số cán bộ, công chức, viên chức dôi dư, có trình độ chuyên môn chưa đạt chuẩn, năng lực công tác hạn chế… nghỉ hưu trước tuổi và thôi việc để hưởng chính sách tinh giản biên chế góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
3. Những yếu tố liên quan, tác động đến cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
a. Vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong chỉ đạo, điều hành cải cách tổ chức bộ máy:
Xác định trách nhiệm của người đứng đầu của các cơ quan, đơn vị đóng vai trò quyết định trong chỉ đạo thực hiện công tác cải cách hành chính nói chung cũng như công tác cải cách tổ chức bộ máy nói riêng, UBND tỉnh đã quán triệt, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc như các quy định của Trung ương trong đó nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu như Chỉ thị số 05/2008/CT-TTg ngày 31/01/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc nâng cao hiệu quả sử dụng thời giờ làm việc của cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 Về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách thủ tục hành chính; các Nghị quyết của HĐND tỉnh về tổ chức bộ máy, biên chế (Nghị quyết số 10/2010/NQ-HĐND ngày 23/7/2010 Về giao quyền tự chủ về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan Nhà nước; giao quyền tự chủ về biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập, các Nghị quyết về giao biên chế, số người làm việc hàng năm).
UBND tỉnh cũng ban hành các Quy định về tiêu chí đánh giá, chấm điểm và xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ thuộc UBND tỉnh, Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh, UBND huyện, thị xã, thành phố (Quyết định số 2200/QĐ-UBND ngày 15/10/2014; Quyết định số 2547/QĐ-UBND ngày 17/11/2015).
Hàng năm, UBND tỉnh công bố các cơ quan, địa phương hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, hoàn thành tốt nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ. Kết quả thực hiện cải cách hành chính là cơ sở để UBND tỉnh xem xét mức độ hoàn thành nhiệm vụ hàng năm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước tại các cơ quan, đơn vị , địa phương trên địa bàn tỉnh và là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá, bình xét danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng cho tổ chức, cá nhân.
Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 10/6/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách thủ tục hành chính, UBND tỉnh đã chỉ đạo tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong việc thực hiện công tác cải cách thủ tục hành chính để chỉ đạo triển khai thực hiện (Công văn số 2984/UBND-NC ngày 3/8/2015).
b. Việc đổi mới phương thức làm việc trong cơ quan, tổ chức, đơn vị: Cơ chế một cửa, một cửa liên thông; hình thành các Trung tâm dịch vụ hành chính công ... và những giải pháp mới của cơ quan, đơn vị:
* Về những sáng kiến, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, xây dựng tổ chức bộ máy:
Ngoài việc thực hiện những quy định của Trung ương, trong triển khai thực hiện nhiệm vụ, UBND tỉnh cũng đã có một số sáng kiến, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước, xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả như:
- Rà soát chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc để tổ chức hợp lý các chi cục, các phòng chuyên môn thuộc sở, ngành phù hợp với điều kiện của tỉnh. Đồng thời quy định cụ thể số lượng cấp phó để giảm biên chế cho bộ máy;
- Xây dựng đề án sáp nhập Trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị với Trường Trung học Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Hiện Đề án đã được UBND tỉnh Quảng Trị trình Bộ Giáo dục và Đào tạo cho ý kiến;
- Xây dựng Đề án Thành lập Trung tâm Nghiên cứu phát triển và Xúc tiến đầu tư tỉnh.
- Xây dựng phần mềm một cửa điện tử cài đặt cho 100% cơ quan hành chính 3 cấp.
- Xây dựng Hệ thống phần mềm theo dõi, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, UBND các huyện, thị xã, thành phố.
- Xây dựng Phần mềm quản lý vị trí việc làm, hiện đang trong quá trình xây dựng cơ sở dữ liệu. Phần mềm hoàn chỉnh sẽ là công cụ hữu ích trong việc quản lý Vị trí việc làm, từ đó làm cơ sở cho công tác tuyển dụng, thực hiện các chế độ, chính sách, đạo tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức.
* Về thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông:
Giai đoạn 2011-2016 việc thực hiện tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh đã có nhiều chuyển biến tích cực. UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch số 2003/KH-UBND ngày 04/6/2015 về triển khai thực hiện Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg; ban hành Chỉ thị số 03/CT- UBND ngày 09/2/2015 về việc nâng cao chất lượng thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 1490/QĐ-UBND ngày 15/7/2015 về việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC tại cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 2563/QĐ-UBND ngày 19/11/2015 về việc thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong giải quyết các TTHC liên quan đến tổ chức, cá nhân tại cơ quan hành chính nhà nước cấp tỉnh trên địa bàn tỉnh và nhiều văn bản chỉ đạo triển khai việc thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông;
Kết quả đến nay, trên địa bàn tỉnh có 20/20 cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, 9/10 huyện, thị xã, thành phố (huyện đảo Cồn Cỏ do đặc thù nên không tổ chức thực hiện); 141/141 xã, phường, thị trấn thực hiện việc tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông.
Tỉnh đã triển khai và đưa vào hoạt động trang dịch vụ công trực tuyến tại địa chỉ http://www.dichvucong.quangtri.gov.vn để thuận tiện cho việc nộp hồ sơ cũng như tra cứu kết quả hành chính qua mạng giúp tiết kiệm thời gian và hiệu quả. Từ năm 2016, mô hình một cửa điện tử  trong giải quyết các thủ tục hành chính đã được triển khai tại 100% các cơ quan, đơn vị hành chính trên địa bàn toàn tỉnh. HĐND tỉnh đã thông qua Nghị quyết số 37/2016/NQ-HĐND về ban hành chính sách hỗ trợ  nâng cao chất lượng hoạt động của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tại UBND các huyện, thị xã, thành phố; UBND các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2017-2018.
Có thể thấy, việc thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông đã tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân khi giao dịch với cơ quan hành chính nhà nước, đồng thời làm thay đổi cách thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo hướng phục vụ; hiệu quả hoạt động của các cơ quan, đơn vị ngày càng cao hơn; đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, tổ chức và doanh nghiệp. Môi trường đầu tư kinh doanh của tỉnh ngày càng được cải thiện, số lượng nhà đầu tư đến tìm hiểu cơ hội và đầu tư tại tỉnh ngày càng tăng; ngăn chặn tình trạng hách dịch, sách nhiễu, cửa quyền của cán bộ, công chức, viên chức khi giao dịch, giải quyết công việc với tổ chức và công dân.
* Về hình thành Trung tâm dịch vụ hành chính công:
Năm 2016, HĐND tỉnh đã đưa nội dung về thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính công vào Nghị quyết số 21/2016/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 về ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh năm 2017.
c. Việc thực hiện quy định của pháp luật về tuyển dụng, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ:
* Đối với công tác tuyển dụng:
UBND tỉnh đã ban hành các quy định về tuyển dụng công chức, viên chức; chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn lực có chất lượng; quy chế xét tuyển đặc biệt…
Nhìn chung việc thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức đã đạt được kết quả tốt; quy chế thi tuyển, xét tuyển được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo tính công khai, công bằng, dân chủ ở từng khâu, từng chức danh tuyển dụng, cơ bản được đông đảo cán bộ, nhân dân đồng tình.
Kết quả, trong giai đoạn 2007 - 2016, tỉnh đã tổ chức tuyển dụng được 631 công chức, trong đó thi tuyển (06 kỳ) 406 người và xét tuyển đặc biệt 225 người.
Việc tổ chức thi tuyển, xét tuyển công chức, viên chức của tỉnh nhằm lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ chuyên môn đào tạo và năng lực đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ, đúng chức danh, vị trí việc làm đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt nên việc sử dụng công chức, viên chức đạt hiệu quả cao và đáp ứng ngay yêu cầu của các cơ quan, đơn vị sử dụng công chức, viên chức.
* Đối với công tác bổ nhiệm:
Từ năm 2011-2016 tỉnh Quảng Trị đã thực hiện đề bạt, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại công chức lãnh đạo, viên chức quản lý 419 trường hợp,  diện Ban Thường vụ Tỉnh ủy: 158 và UBND tỉnh quản lý: 216  (Năm 2011: 57, năm 2012: 73, năm 2013: 58, năm 2014: 112, năm 2015: 57 và năm 2016: 62). Nhìn chung, công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại cán bộ, công chức tại các cấp, các ngành được thực hiện theo đúng quy trình, nguyên tắc, thủ tục.
* Công tác đào tạo, bồi dưỡng:
Hội đồng nhân dân tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 12/2013/NQ-HĐND ngày 31/5/2013 “Về việc quy định một số chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ, thu hút và tạo nguồn nhân lực có chất lượng của tỉnh giai đoạn 2013 – 2020”. UBND tỉnh đã có kế hoạch về đào tạo, bồi dưỡng CBCC tỉnh Quảng Trị giai đoạn 2011-2015 và hướng dẫn, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị xây dựng kế hoạch, triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC.
Hàng năm, căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương và các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ, tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch kinh phí đào tạo, bồi dưỡng CBCC, VC trình HĐND tỉnh phê duyệt và ban hành các văn bản phê duyệt kế hoạch đào tạo CBCC, VC của tỉnh.
Từ năm 2011 đến nay, tỉnh đã tổ chức đào tạo, bồi dưỡng 36.084 lượt cán bộ, công chức, viên chức về lý luận chính trị, quản lý nhà nước, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, bồi dưỡng kiến thức Quốc phòng an ninh, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành theo vị trí việc làm cho cán bộ, công chức, viên chức.
100% công chức cấp tỉnh, cấp huyện được đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng tiêu chuẩn quy định (Đối chiếu theo tiêu chuẩn quy định tại Quyết định số 414/TCCP-VC ngày 29/5/1993 của Ban Tổ chức - Cán bộ Chính phủ, nay là Bộ Nội vụ); 100% cán bộ cấp xã được bồi dưỡng kiến thức theo chức danh.
d. Cơ sở, điều kiện bảo đảm cho hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước:
Nhìn chung, cơ sở, điều kiện cho hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh tỉnh Quảng Trị cơ bản được đảm bảo từ trụ sở, trang thiết bị, phương tiện công tác... Tuy nhiên, còn nhiều cơ quan, đơn vị đặc biệt ở cấp xã cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị làm việc vẫn còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, chưa đáp ứng yêu cầu làm việc.
4. Việc thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại và xử lý vi phạm pháp luật trong việc thực hiện chủ trương, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước.
Trong giai đoạn 2011-2016, đã tiến hành được 33 cuộc thanh tra, kiểm tra về công tác nội vụ đối với các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, tổ chức hội, trong đó có 07 cuộc thanh tra có nội dung thanh tra về tổ chức bộ máy.
Các cuộc thanh tra, kiểm tra của tỉnh được tổ chức triển khai đồng bộ, tập trung, kết thúc đúng thời gian quy định, kết luận rõ ràng, dứt điểm, kiến nghị xử lý nghiêm minh theo pháp luật, chất luợng các cuộc thanh tra được nâng lên và đảm bảo tiến độ đề ra.
Qua thanh tra, kiểm tra, về tổ chức bộ máy, các cơ quan, đơn vị đều thực hiện theo đúng quy định tại Nghị định số 24/2014/NĐ-CP, Nghị định số 37/2014/NĐ-CP, các Thông tư liên tịch của các bộ chuyên ngành và Bộ Nội vụ hướng dẫn thực hiện các nghị định trên và các quy định có liên quan.
Việc thành lập, sáp nhập, giải thể các cơ quan, đơn vị theo đúng trình tự, thủ tục quy định. Các cơ quan đã ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức bên trong theo đúng quy định; không có chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót nhiệm vụ; tổ chức bộ máy ngày càng được tinh gọn; thực hiện tốt các quy định về cải cách về tổ chức bộ máy; không xảy ra việc khiếu nại, tố cáo, vi phạm về thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy ở địa phương.
Qua công tác thanh tra, kiểm tra đã kịp thời phát hiện và chấn chỉnh những hạn chế, thiếu sót trong tổ chức bộ máy, biên chế, tuyển dụng, thực hiện chế độ chính sách tiền lương, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, quy hoạch cán bộ; quản lý điều hành, kiến nghị xử lý nghiêm các vi phạm, góp phần nâng cao được ý thức trách nhiệm của Thủ trưởng các đơn vị, lãnh đạo các địa phương trong nhận thức, hành động đối với việc tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật, đồng thời kiến nghị các cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách nhằm tăng cường công tác quản lý, hạn chế phát sinh tiêu cực, tham nhũng, lãng phí... trong lĩnh vực cải cách tổ chức bộ máy hành chính.
PHẦN II
NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ
I. Đánh giá kết quả thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
1. Ưu điểm:
- Việc ban hành văn bản pháp luật để cụ thể hóa chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đảm bảo kịp thời, đúng đúng thẩm quyền, đúng căn cứ pháp lý, trên cơ sở các quy định của Trung ương, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, quán triệt, thấu suốt tinh thần cải cách hành chính theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy, giảm các đầu mối.
- Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan, đơn vị bám sát vào Thông tư hướng dẫn của các Bộ, ngành liên quan và phù hợp tình hình thực tế của tỉnh, đảm bảo chặt chẽ, rõ ràng và hợp lý, không xảy ra tình trạng chồng chéo, trùng lặp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ.
- Việc sắp xếp cơ quan, đơn vị trong hệ thống chính trị từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã thực hiện theo đúng các quy định của Chính phủ, bảo đảm tinh gọn, khắc phục được sự cồng kềnh, chồng chéo, góp phần tạo bước chuyển biến về đổi mới phương thức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền.
- Hệ thống các ĐVSNCL được sắp xếp, kiện toàn theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả trong việc phục vụ công tác quản lý nhà nước. Các đơn vị đã chú trọng đẩy mạnh thực hiện cơ chế tự chủ về tổ chức bộ máy, biên chế, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước.
- Việc quản lý và sử dụng biên chế đã từng bước được kiểm soát chặt chẽ, đúng với các quy định của Chính phủ; việc thực hiện tinh giản biên chế trên địa bàn tỉnh Quảng Trị cơ bản bảo đảm đúng nguyên tắc và trình tự các bước thực hiện, đảm bảo tỷ lệ tinh giản hàng năm và đến năm 2021 theo đúng quy định của Chính phủ.
- Công tác quản lý, tuyển dụng và sử dụng công chức, viên chức được thực hiện chặt chẽ, các bất cập trong tuyển dụng, điều động, luân chuyển được khắc phục, trong đó đặc biệt chú trọng tuyển chọn, sử dụng nhân tài, nhân lực có chất lượng cao vào các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập.
- Công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ ở các cơ quan, đơn vị được thực hiện đúng quy trình, đảm bảo tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ từ các cơ quan, đơn vị.
- Các kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC,VC được tổ chức thực hiện theo nội dung, chương trình đề ra theo hướng chọn lựa, ưu tiên các nội dung, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng để phù hợp với yêu cầu công việc và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC,VC.
2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân:
2.1. Tồn tại hạn chế:
- Bên cạnh việc thực hiện tốt các hướng dẫn quy định về cơ cấu tổ chức của các Sở và UBND cấp huyện; qua giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội nhận thấy quyết định của UBND tỉnh quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của một số sở và UBND thành phố Đông Hà có một số quy định chưa phù hợp. Có thể đơn cử một số trường hợp như: UBND thành phố Đông Hà được UBND tỉnh quyết định thành lập "Đội trật tự xây dựng" trực thuộc UBND thành phố (Quyết định số 776/QĐ-UBND ngày 02 tháng 5 năm 2008 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Trị) trong lúc đó về chức năng quản lý nhà nước ở lĩnh vực này đã có "Phòng quản lý đô thị" trực thuộc UBND thành phố. Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn được UBND tỉnh cho phép thành lập "Trung tâm Điều tra, quy hoạch, thiết kế nông lâm" (tại Quyết định số 05/2016/QĐ-UBND ngày 25/02/2016 của UBND tỉnh Quảng Trị Ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Trị) là một đơn vị sự nghiệp công lập không có quy định trong Thông tư liên tịch số14/2015/TTLT-BNNPTNT-BNV ngày 25/3/2015 của Bộ Nội vụ và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện.
- Tổ chức bộ máy tuy có giảm đầu mối tổ chức cấp tỉnh, cấp huyện, nhưng cơ cấu tổ chức bên trong một số cơ quan UBND và sở, ban, ngành chưa thực sự tinh gọn, còn nhiều chi cục, nhiều phòng chuyên môn có chức năng, nhiệm vụ tương tự nhau có thể xem xét, sát nhập để giảm bớt đầu mối và biên chế. Chẳng hạn như: “Đội trật tự đô thị” và “phòng quản lý đô thị” của UBND thành phố Đông Hà; Trung tâm giống Thủy sản và Trung tâm giống cây trồng, vật nuôi; Ban quản lý Dự án đầu tư xây dựng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Phòng quản lý xây dựng công trình; Trung tâm Điều tra, quy hoạch, thiết kế nông lâm và các đơn vị khác của Sở Nông nghiệp và PTNT; Trung tâm Công nghệ thông tin và Ngoại ngữ với các đơn vị khác của Sở Giáo dục và Đào tạo.
- Việc phân định tách bạch giữa chức năng quản lý nhà nước và chức năng sự nghiệp tại một số ngành, đặc biệt là ngành nông nghiệp chưa thực sự rõ ràng (Trạm Bảo vệ thực vật, Trạm Thú y thực hiện chức năng sự nghiệp là không phù hợp).
- Hệ thống các ĐVSNCL còn tương đối cồng kềnh, ở lĩnh vực giáo dục và đào tạo quy mô trường lớp nhỏ nên việc bố trí số người làm việc còn nhiều bất cập.
- Mặc dù đã có Nghị định số 36/2013/NĐ-CP và Nghị định số 41/2012/NĐ-CP nhưng việc xác định biên chế theo đúng vị trí việc làm vẫn còn nhiều bất cập, việc giao biên chế cho từng cơ quan, đơn vị còn mang tính tương đối thiếu khoa học và chưa phù hợp với thực tiễn.
- Một số cơ quan, đơn vị chưa quán triệt đầy đủ Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị, Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ, chưa triển khai quyết liệt và chưa quan tâm đúng mức việc thực hiện chủ trương tinh giản biên chế nhằm mục đích cuối cùng là cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức, góp phần nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị.
- Một số cơ quan, đơn vị số lượng biên chế, số người làm việc còn thiếu so với định mức quy định, chưa được Trung ương bổ sung mặc dù trước khi thực hiện tinh giản biên chế tỉnh đã nhiều lần kiến nghị bổ sung; hiện nay phải cắt giảm do thực hiện tinh giản biên chế tối thiểu 10% so với biên chế được giao năm 2015. Do đó, trước khi thực hiện tinh giản biên chế đã thiếu nay còn thiếu nhiều hơn đã ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được Đảng và Nhà nước giao.
- Việc đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm của các cơ quan, đơn vị vẫn còn nể nang chưa nêu rõ được mặt mạnh, mặt yếu, sở trường, hạn chế của từng cán bộ, nhất là đối chiếu với tiêu chuẩn, yêu cầu của từng chức danh cụ thể, ảnh hưởng đến việc thực hiện tinh giản biên chế.
- Việc giao, quản lý biên chế cho các tổ chức Hội quần chúng hiện nay còn nhiều bất cập; không xác định được cán bộ cơ quan nhà nước điều động sang công tác ở các Hội thuộc công chức, viên chức hay thuộc dạng cán bộ nào; vì vậy, dẫn đến cách hiểu và vận dụng khác nhau, thiếu cơ sở khoa học, thống nhất.
2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế.
2.2.1. Đối với các Bộ, Ngành trung ương:
- Một số Bộ, Ngành trung ương còn chậm trong việc ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện các Nghị định của Chính phủ, dẫn đến một số chủ trương, chính sách triển khai còn thiếu kịp thời.
- Một số quy định của các Bộ, ngành chưa rõ ràng, thống nhất như: quy định về tổ chức bộ máy, biên chế thuộc ngành nông nghiệp chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng sự nghiệp; quy định về con dấu của một số phòng chuyên môn cấp huyện chưa đồng bộ, thống nhất (phòng Tư pháp, phòng Nội vụ, phòng Y tế không có con dấu).
- Việc ban hành hệ thống các cơ chế, chính sách đối với ĐVSNCL triển khai thực hiện chưa đồng bộ, chưa tính đến yêu cầu tính chất đặc thù trong từng ngành, lĩnh vực sự nghiệp. Việc xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều lúng túng. Đến nay, chưa xây dựng được hệ thống đánh giá kết quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp phù hợp với đặc thù của ngành, lĩnh vực.
- Chưa ban hành quy định cụ thể, rõ ràng về quản lý biên chế cán bộ nhà nước công tác ở các tổ chức Hội quần chúng.
2.2.2. Đối với địa phương:
- Việc ban hành quy định hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh có một số điểm chưa phù hợp với hướng dẫn tại Thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ và các Bộ chuyên ngành; Công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy hành chính ở địa phương chưa thường xuyên; Sở Nội vụ là cơ quan tham mưu còn nể nang, thiếu kiên quyết trong việc tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện đúng quy định về cơ cấu tổ chức của các sở và các địa phương; Các sở chuyên ngành và các địa phương, nhất là người đứng đầu (Chủ tịch UBND, giám đốc, cấp trưởng các sở, ngành, đơn vị) chưa quán triệt tinh thần và triển khai thực hiện đầy đủ, đáp ứng yêu cầu, nội dung, chương trình cải cách bộ máy hành chính, đề xuất thành lập các đơn vị trực thuộc không có trong các văn bản quy định của cấp trên, không vì lợi ích chung.
II. Đề xuất giải pháp, kiến nghị nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy hành chính nhà nước
1. Giải pháp:
- Bộ Nội vụ cần nghiên cứu hợp nhất các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, biên chế, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong phạm vi cả nước.
- Bộ Nội vụ là cơ quan tham mưu, ”gác cửa” cho Chính phủ về tổ chức, bộ máy, biên chế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, rà soát các quyết định của UBND các tỉnh, thành trong cả nước quy định về cơ cấu tổ chức, biên chế của các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố một cách kiên quyết, đồng bộ, nhất quán, thống nhất trong chỉ đạo; kịp thời chấn chỉnh việc ban hành các quyết định chưa phù hợp với thông tư liên tịch giữa Bộ Nội vụ và các Bộ chuyên ngành.
2. Kiến nghị:
a) Đối với Chính phủ, các Bộ, Ngành trung ương:
- Đề nghị Chính phủ, Bộ Nội vụ nghiên cứu để có cơ sở khoa học trong việc giao biên chế cho các tỉnh trên cơ sở vị trí việc làm và khối lượng công việc phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng tỉnh (không giao theo dân số như hiện nay).
- Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 39-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP của Chính phủ, cần sửa đổi Nghị định số 24/2014/NĐ-CP và Nghị định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ và các Thông tư liên Bộ theo hướng giảm số lượng các phòng chuyên môn, đặc biệt là các Ban, Chi cục thuộc các sở, ban, ngành cấp tỉnh để tinh gọn tổ chức bộ máy (chỉ tổ chức Chi cục khi thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là thừa hành thực thi pháp luật). Đồng thời, đề nghị nghiên cứu, sửa đổi Nghị định số 37/2014/NĐ-CP của Chính phủ theo hướng quy định một số phòng chuyên môn cấp huyện (Phòng Y tế, Phòng Tư pháp và Phòng Nội vụ) được có con dấu, tài khoản và tư cách pháp nhân.
- Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định mới thay thế Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 của Chính phủ Quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội phù hợp với Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và Kết luận số102-KL/TW ngày 22/9/2014 của Bộ Chính trị về hội quần chúng.
- Đề nghị Chính phủ có quy định phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng sự nghiệp của một số cơ quan, đơn vị thuộc ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Hạt Kiểm lâm trong các Ban Quản lý Khu bảo tồn thiên nhiên, Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật, Trạm Chăn nuôi và Thú y thực hiện chức năng sự nghiệp là không phù hợp).
- Một số quy định về tổ chức bộ máy, biên chế thuộc ngành nông nghiệp chưa phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng sự nghiệp như: Nghị định số 117/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 về tổ chức quản lý hệ thống rừng đặc dụng quy định Hạt Kiểm lâm là một bộ phận thuộc Ban Quản lý (BQL) rừng đặc dụng và Hạt trưởng đồng thời là Giám đốc BQL trong khi BQL rừng đặc dụng là một đơn vị sự nghiệp còn Kiểm lâm là lượng lực thực hiện chức năng quản lý nhà nước; Các Trạm Chăn nuôi và Thú y, Trạm Trồng trọt và Bảo vệ thực vật cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước nhưng lại được giao chỉ tiêu sự nghiệp là chưa phù hợp. Điều này dẫn đến khó khăn trong việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ và đảm bảo các chế độ cho công chức, viên chức.
- Một số nội dung tại Nghị định số 115/2010/NĐ-CP ngày 24/12/2010 của Chính phủ quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục và Thông tư liên tịch số 11/TTLT- BGDĐT- BNV ngày 29/5/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức và biên chế của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh chưa thống nhất trong việc quy định thẩm quyền bổ nhiệm người đứng đầu các cơ sở giáo dục công lập và thẩm quyền giao dự toán ngân sách cho các trường công lập cấp huyện, dẫn đến khó khăn trong việc triển khai thực hiện và không có sự thống nhất trong cả nước.
- Một số quy định của Chính phủ không thuộc lĩnh vực tổ chức nhà nước có quy định nội dung liên quan đến tổ chức bộ máy làm cho cho các địa phương lúng túng trong thực hiện. Điển hình như Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ “Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế” (Điều 9, Khoản 1) quy định Phòng Pháp chế được thành lập ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh sau đây: Sở Nội vụ, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Sở Công Thương, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Thông tin và Truyền thông, Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sở Khoa học và Công nghệ, Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế. Tuy nhiên qua giám sát cho thấy hầu như các sở trên đều không thực hiện vì không được quy định trong các Thông tư liên tịch gần đây giữa Bộ Nội vụ và các Bộ chuyên ngành. Vấn đề đặt ra là Nghị định 55/2011/NĐ-CP có còn hiệu lực, được tiếp tục thực hiện hay không, nếu không cần phải bãi bỏ.
- Chính phủ cần xây dựng và ban hành khung về tiêu chí thành lập sở, chi cục, phòng chuyên môn thuộc sở, phòng chuyên môn thuộc huyện, thị xã, thành phố phù hợp với từng loại tỉnh và đặc điểm tự nhiên của tỉnh; cần quy định số học sinh, số trường tối thiểu và quy mô thành lập trường nhiều cấp học (trường tiểu học và trung học cơ sở, trường trung học cơ sở và trung học phổ thông) và có định mức số giáo viên, nhân viên phù hợp với từng loại trường để tiết kiệm trong việc xây dựng cơ sở vật chất, bố trí số người làm việc và tinh gọn bộ máy.
- Thực hiện tính đủ chi phí các loại hình dịch vụ, đặc biệt là sự nghiệp giáo dục để giao quyền tự chủ kinh phí cho các đơn vị sự nghiệp giáo dục (trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông), theo phương thức tính đủ chi phí trên đầu học sinh phù hợp với đặc điểm của từng vùng miền và thực hiện xã hội hóa trên cơ sở sự hỗ trợ của nhà nước theo từng vùng (miền núi 70%, đồng bằng 50%, đô thị 30%) để giảm bớt gánh nặng cho nhà nước về bao cấp tổ chức bộ máy, biên chế, kinh phí như hiện nay.
- Đề nghị Bộ Nội vụ ban hành Thông tư hướng dẫn cụ thể Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ Quy định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập để thuận lợi cho địa phương trong thực hiện; ban hành quy định rõ về quản lý cán bộ nhà nước công tác tại các Hội quần chúng.
- Đề nghị Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ sớm ban hành thông tư hướng dẫn việc thực hiện Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 của Chính phủ Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập và các Bộ chuyên ngành ban hành định mức kinh tế - kỹ thuật, danh mục dịch vụ công để địa phương có cơ sở triển khai thực hiện.
- Đề nghị Bộ Nội vụ, Bộ Y tế, Bộ giáo dục và Đào tạo nghiên cứu, sửa đổi một số quy định về định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế, giáo dục (Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BYT-BNV ngày 05/06/2007 của Bộ Y tế và Bộ Nội vụ về hướng dẫn định mức biên chế sự nghiệp trong các cơ sở y tế nhà nước, Thông tư liên tịch số 35/2006/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 23/8/2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Nội vụ Hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập) để phù hợp với tình hình thực tế và việc thực hiện tự chủ trong các ĐVSNCL theo các quy định mới.                
Đối với biên chế sự nghiệp y tế và sự nghiệp giáo dục được tính trên định mức số lớp, số giường bệnh của các tỉnh đang còn thiếu so với định mức quy định. Đề nghị hàng năm Trung ương không cắt giảm trong số chỉ tiêu do thực hiện tinh giản biên chế mà để địa phương tự cân đối, điều chỉnh trong số biên chế đã được giao.
b) Đối với các cơ quan của tỉnh:
Kiến nghị với Thường trực HĐND tỉnh, UBND tỉnh và Sở Nội vụ tiến hành giám sát, kiểm tra, rà soát quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, nhất là cơ cấu tổ chức bên trong của các sở, ngành, UBND các huyện, thị, thành phố thuộc tỉnh. Đồng thời, kiểm tra, đánh giá xem xét khắc phục những hạn chế trong cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương hiện nay mà báo cáo kết quả giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã chỉ ra.
Trên đây là báo cáo kết quả giám sát “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2016” trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Trị kính báo cáo Đoàn giám sát của Quốc hội./.

Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 1 - 1 phiếu bầu

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây