Kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV

Thứ tư - 21/11/2018 09:06 1.543 0
Sau 22,5 ngày làm việc với tinh thần trách nhiệm, dân chủ, trí tuệ và không ngừng đổi mới (từ ngày 22/10 đến ngày 20/11/2018), kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV đã kết thúc tốt đẹp, hoàn thành chương trình làm việc với những kết quả chủ yếu sau:
1. Công tác nhân sự
Tại kỳ họp này, với sự tín nhiệm rất cao, Quốc hội đã bầu Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng giữ chức vụ Chủ tịch nước. Đây là nội dung quan trọng, được cử tri và Nhân dân cả nước quan tâm, đánh giá cao. Đồng thời, Quốc hội đã phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc miễn nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông đối với ông Trương Minh Tuấn và bổ nhiệm chức vụ Bộ trưởng Bộ Thông tin và truyền thông đối với ông Nguyễn Mạnh Hùng. Công tác nhân sự tại kỳ họp được tiến hành chặt chẽ, đúng trình tự, thủ tục theo quy định.
2. Xem xét, quyết định các vấn đề về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
Quốc hội đã xem xét, thảo luận các báo cáo đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội, ngân sách nhà nước năm 2018 và kết quả giữa kỳ thực hiện các kế hoạch 5 năm 2016-2020 về kinh tế-xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chương trình mục tiêu quốc gia, tài chính quốc gia, đầu tư công trung hạn; kết quả 3 năm thực hiện chính sách đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Đây là dịp để nhìn lại tình hình thực hiện nhiệm vụ trong nửa chặng đường đã qua của nhiệm kỳ 2016-2020. Qua báo cáo của các cơ quan hữu quan và thảo luận của các vị đại biểu Quốc hội cho thấy, kinh tế-xã hội năm 2018 và 3 năm qua mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng vẫn phát triển khá toàn diện, việc cơ cấu lại nền kinh tế đã đạt được những kết quả tích cực, các chỉ tiêu cơ bản đều đạt và vượt, GDP tăng từng năm, an sinh xã hội và đời sống của Nhân dân từng bước được nâng lên, quốc phòng, an ninh được giữ vững, vị thế của nước ta trong khu vực và trên thế giới không ngừng được nâng cao.
Quốc hội ghi nhận, đánh giá cao sự chỉ đạo và thực hiện quyết liệt các giải pháp của Chính phủ, các ngành, các cấp; biểu dương tinh thần nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp Nhân dân đã khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức để cơ bản hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ chủ yếu của năm 2018 và có những chuyển biến tích cực, toàn diện, đạt kết quả quan trọng trên hầu hết các lĩnh vực trong nửa nhiệm kỳ qua. Quốc hội cũng thẳng thắn chỉ ra những tồn tại, hạn chế, phân tích nguyên nhân và đề ra nhiều giải pháp thiết thực nhằm hoàn thành các mục tiêu, chỉ tiêu đã đặt ra đến năm 2020.
2.1. Về đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020:
Sau 3 năm thực hiện Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội đã đạt được một số kết quả bước đầu quan trọng, gắn kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách hàng năm. Kỷ cương, kỷ luật trong quản lý, điều hành ngân sách nhà nước được nâng cao, từng bước gắn kết giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tạo tính chủ động cho các bộ, ngành, địa phương, từng bước cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa trong quản lý thu, chi ngân sách nhà nước.
Tổng thu ngân sách nhà nước 3 năm 2016-2018 ước đạt 54,68% kế hoạch 5 năm. Thu ngân sách  nhà nước từng năm 2016, 2017 và 2018 đều đạt và vượt dự toán. Tuy nhiên, qua xem xét số liệu cho thấy, phần tăng thu chủ yếu là ngân sách địa phương, ngân sách trung ương còn hụt thu trong 2 năm 2016, 2017. Dự kiến thực hiện trong 5 năm (2016 - 2020) thu ngân sách nhà nước dự kiến đạt khoảng 6,6-6,7 triệu tỷ đồng, đạt 97-98% kế hoạch 5 năm.
Chi ngân sách nhà nước 3 năm 2016-2018 ước đạt 54,4% kế hoạch 5 năm; cơ cấu chi ngân sách khá tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển tăng, cao hơn mục tiêu đề ra (25-26%). Tỷ trọng chi thường xuyên năm sau giảm hơn so với năm trước. Dự kiến trong 5 năm (2016-2020) chi ngân sách nhà nước đạt khoảng 96-97% kế hoạch 5 năm; cơ cấu chi ngân sách có bước chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chi đầu tư phát triển bình quân đạt 26-27% tổng chi ngân sách nhà nước trong thực hiện, cao hơn mục tiêu 25-26%; tỷ lệ bội chi và nợ công/GDP bảo đảm đạt mục tiêu đề ra. Nợ công hàng năm, nợ Chính phủ và nợ nước ngoài của quốc gia đều giữ ở thấp hơn giới hạn theo mục tiêu đề ra.
Trong điều hành ngân sách nhà nước, Chính phủ đã chú trọng thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra. Tuy nhiên, một số nhiệm vụ, giải pháp đề ra chưa được thực hiện triệt để như: phương pháp quản lý chi ngân sách nhà nước vẫn chủ yếu chú trọng đến yếu tố “đầu vào”, chưa quyết tâm thực hiện quản lý theo kết quả “đầu ra” gắn với đánh giá thực hiện nhiệm vụ được giao; việc điều chỉnh các chính sách thu còn chậm và có khó khăn nhất định; việc đổi mới cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập còn chưa được thực hiện quyết liệt, đồng bộ.
2.2. Về đánh giá giữa kỳ thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020:
Quốc hội cho rằng, Chính phủ cùng các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, nghiêm túc triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội và đạt được nhiều kết quả tích cực, thay đổi căn bản phương thức quản lý, cân đối, phân bổ nguồn lực tài chính quốc gia dành cho đầu tư phát triển, chuyển từ cơ chế quản lý theo kế hoạch đầu tư hằng năm sang kế hoạch trung hạn gắn với kế hoạch hằng năm, tạo chủ động cho Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương trong cân đối nguồn lực đầu tư từ ngân sách và huy động các nguồn vốn khác cho đầu tư phát triển. Tổng số vốn đã triển khai phân bổ chi tiết là 1.788.804,318 tỷ đồng, bằng 99,4% tổng mức kế hoạch được Quốc hội quyết định (không bao gồm dự phòng chung 200.000 tỷ đồng). Những nhiệm vụ, mục tiêu quan trọng và các dự án quan trọng quốc gia theo các Nghị quyết của Quốc hội đều được cân đối và bố trí vốn đầy đủ. Nhiều công trình hạ tầng mang tính kết nối vùng được đẩy nhanh tiến độ thi công, hoàn thành, đưa vào khai thác, sử dụng một số công trình lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các hoạt động kinh tế, tăng cường liên kết vùng, góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Hiệu quả đầu tư công đã được cải thiện một bước, góp phần nâng cao hiệu quả vốn đầu tư toàn xã hội, hệ số ICOR giảm từ 6,36 của giai đoạn 2011-2014 xuống còn 6,11 trong giai đoạn 2015-2017, giảm nợ đọng xây dựng cơ bản, góp phần hạn chế đầu tư dàn trải, quyết định chủ trương và quyết định đầu tư chưa phù hợp, không căn cứ khả năng cân đối vốn.
Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số hạn chế như: bố trí vốn không phù hợp với tiến độ thi công dự án, xây dựng kế hoạch đối với nguồn vốn ODA chưa bao quát được hết các hiệp định đã ký kết, chưa tổng hợp đầy đủ số dự án, chưa tính toán cân đối hợp lý giữa nhu cầu vay và khả năng trả nợ, dẫn đến tình trạng nhiều dự án bị thiếu vốn do phát sinh các Hiệp định ký kết sau, làm tăng áp lực trong việc cân đối giữa các nguồn vốn, dẫn đến vượt mức trần 300.000 tỷ đồng (lên 360.000 tỷ đồng), một số dự án quan trọng quốc gia (dự án xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông, Cảng hàng không quốc tế Long Thành) tiến độ triển khai chậm, một số dự án phải điều chỉnh tổng mức đầu tư quá lớn, ảnh hưởng đến cân đối nguồn lực, một số dự án chất lượng chưa bảo đảm, cơ chế thu hút đầu tư PPP chưa đồng bộ, chưa rõ ràng, tỷ lệ giải ngân trong năm 2016, 2017 thấp, đặc biệt là nguồn trái phiếu Chính phủ đạt tỷ lệ giải ngân rất thấp (đạt 47,3% năm 2016 và 41,2% năm 2017), ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công.
2.3. Về đánh giá giữa kỳ thực hiện Nghị quyết số 100/2015/QH13 phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020:
Qua 3 năm thực hiện, Chính phủ cùng các bộ, ngành, địa phương đã khẩn trương, nghiêm túc triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được quy định trong Nghị quyết số 100/2015/QH13 và đã đạt được những kết quả tích cực. Chính phủ đã bố trí 43.119 tỷ đồng từ nguồn ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2016-2020 để thực hiện các dự án đầu tư cho chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, đồng thời huy động được nguồn lực đáng kể để thực hiện Chương trình này. Kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ chương trình khá tích cực cả về số lượng, chất lượng xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới, nợ đọng xây dựng cơ bản đã giảm mạnh so với đầu giai đoạn. Nhiều tiêu chí quan trọng như lao động có việc làm, thu nhập, giáo dục... đã đạt được kết quả khả quan, cơ sở hạ tầng của các vùng nông thôn đã được cải thiện, làm thay đổi diện mạo nông thôn, tạo cơ sở để thúc đẩy sản xuất, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân.
Trong 3 năm qua, ngân sách trung ương đã giao 21.597,557 tỷ đồng, bằng 52,1% tổng vốn cả giai đoạn 2016-2020 để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, cùng với khoảng 60.111 tỷ đồng để thực hiện các chính sách giảm nghèo thường xuyên, đồng thời huy động khá lớn nguồn lực từ xã hội để thực hiện Chương trình này. Số hộ nghèo giảm nhanh qua các năm, tỷ lệ hộ nghèo ước đến cuối năm 2018 chỉ còn 6%, giảm khoảng 1-1,3% so với đầu năm 2018, số hộ nghèo đa chiều có xu hướng giảm mạnh, nhiều địa phương không còn tình trạng tái nghèo.
Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế: việc ban hành văn bản hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện quá chậm, dẫn đến tình trạng thiếu cơ sở pháp lý và căn cứ để triển khai thực hiện, việc tích hợp, lồng ghép các chương trình còn hạn chế. Việc giao vốn còn chậm, vẫn còn tình trạng dàn trải, nợ đọng, môi trường ở nhiều vùng nông thôn còn bị ảnh hưởng nghiêm trọng, nhiều địa phương còn nợ tiêu chí nông thôn mới. Một số địa phương không đủ khả năng cân đối vốn đối ứng để thực hiện các chính sách giảm nghèo, tỷ lệ hộ tái nghèo phát sinh còn cao (22,98% tổng số hộ thoát nghèo).
2.4. Về đánh giá 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi 2016-2018:
Quốc hội cho rằng, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, ngành và một số địa phương đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số, miền núi dân tộc thiểu số, miền núi. Hiện nay, hệ thống chính sách ngày càng đồng bộ, toàn diện, bao phủ hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Nguồn lực đầu tư phát triển vùng dân tộc thiểu số, miền núi ngày càng tăng và đã đạt được kết quả quan trọng.
Tuy nhiên, vùng dân tộc thiểu số, miền núi vẫn là khu vực có điều kiện tự nhiên khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất; kinh tế - xã hội phát triển chậm nhất; tiếp cận các dịch vụ, phúc lợi xã hội cơ bản kém nhất và tỷ lệ nghèo cao nhất. Vì vậy, trong giai đoạn tới, cần tập trung chỉ đạo, bố trí nguồn lực thực hiện các chính sách đã ban hành về hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi. Tổng kết việc thực hiện chính sách trong giai đoạn vừa qua, nghiên cứu tích hợp hệ thống chính sách hiện hành cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi để tập trung và bảo đảm nguồn lực, khắc phục phân tán, chồng chéo, kém hiệu quả. Tăng cường công tác phối hợp, chỉ đạo, điều hành giữa các cơ quan liên quan và thu gọn đầu mối quản lý. Ban hành tiêu chí phân định vùng dân tộc thiểu số, miền núi bảo đảm khách quan, khoa học, hợp lý làm cơ sở để hoạch định chính sách dân tộc. Thực hiện quy định của Hiến pháp 2013 “Quốc hội quyết định chính sách dân tộc”, thời gian tới, Quốc hội ban hành Nghị quyết về chính sách dân tộc mang tính tổng thể, toàn diện, lâu dài để phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi, theo đó tích hợp các nội dung chính sách, thu gọn một đầu mối quản lý, quy định về cơ chế, nguồn lực bảo đảm thực hiện chính sách.
Sau khi xem xét kỹ lưỡng, Quốc hội đã biểu quyết thông qua các nghị quyết sau:
- Nghị quyết về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019, trong đó thể hiện rõ mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu của năm 2019. Quốc hội cơ bản tán thành nhiệm vụ, giải pháp do Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình và các cơ quan của Quốc hội kiến nghị trong các báo cáo thẩm tra, báo cáo giám sát chuyên đề. Quốc hội đề nghị các cơ quan thực hiện tốt các yêu cầu, nhiệm vụ và giải pháp được nêu tại Kết luận số 37-KL/TW ngày 17/10/2018 của Hội nghị Trung ương 8 (khóa XII) về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước, đồng thời, yêu cầu thực hiện 10 nhóm nhiệm vụ, giải pháp nhằm tổ chức thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu mà Quốc hội đã đề ra, tạo cơ sở vững chắc cho việc hoàn thành Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020…
- Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2019
Năm 2019, tổng số thu ngân sách nhà nước là 1.411.300 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách nhà nước là 1.633.300 tỷ đồng; mức bội chi ngân sách nhà nước là 222.000 tỷ đồng (tương đương 3,6% GDP); tổng mức vay của ngân sách nhà nước là 425.252 tỷ đồng.
Quốc hội giao Chính phủ điều hành chính sách tài khóa chặt chẽ, phối hợp đồng bộ, linh hoạt với chính sách tiền tệ nhằm hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Siết chặt kỷ luật tài chính - ngân sách, chấp hành dự toán ngân sách nhà nước đúng quy định của pháp luật. Đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra và công khai, minh bạch việc sử dụng ngân sách nhà nước. Không ban hành chính sách làm giảm thu ngân sách nhà nước trừ trường hợp điều chỉnh chính sách thu theo các cam kết hội nhập.Thực hiện thu cân đối ngân sách nhà nước đối với toàn bộ phần lãi dầu, khí nước chủ nhà và lợi nhuận được chia từ Liên doanh dầu khí Việt - Nga (Vietsovpetro) và nguồn lợi nhuận còn lại theo quy định tại Điều 34 Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản  xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội. Thực hiện điều chỉnh mức lương cơ sở từ 1,39 triệu đồng/tháng lên 1,49 triệu đồng/tháng, điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng theo quy định (đối tượng do ngân sách nhà nước bảo đảm) và trợ cấp ưu đãi người có công với cách mạng tăng bằng mức tăng lương cơ sở, thời điểm thực hiện từ ngày 01/7/2019. Sớm trình Quốc hội xem xét ban hành Nghị quyết về quản lý và sử dụng nguồn thu từ cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Đồng thời, Quốc hội giao Kiểm toán Nhà nước trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn, tiến hành kiểm toán việc thực hiện Nghị quyết về dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 bảo đảm đúng quy định của pháp luật.
Quốc hội cho phép sử dụng và quyết toán vào chi ngân sách nhà nước năm 2017 số tiền 10.380 tỷ đồng kinh phí còn lại của ngân sách trung ương năm 2017 để xử lý cho các nhiệm vụ bù giảm thu cân đối ngân sách trung ương, hỗ trợ bù giảm thu cân đối ngân sách địa phương, hỗ trợ một số địa phương thiếu nguồn thực hiện chính sách tiền lương. Giao Chính phủ rà soát khoản kinh phí 12.254,9 tỷ đồng chi thường xuyên để sử dụng đến hết niên độ ngân sách năm 2018 và quyết toán vào ngân sách nhà nước năm 2018.
Quốc hội quyết định điều chỉnh, bổ sung vào danh mục kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 và dự toán ngân sách nhà nước năm 2018: 138,592 tỷ đồng để thực hiện Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng (hợp phần triển khai tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam); 79,854 tỷ đồng nguồn viện trợ ODA không hoàn lại của Chính phủ Ai Len để đầu tư cho Dự án hỗ trợ các xã đặc biệt khó khăn; tỉnh Cao Bằng 8,272 tỷ đồng, Bắc Kạn 14,889 tỷ đồng để thực hiện dự án “Hỗ trợ kinh doanh cho nông hộ (CSSP) của tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn”; 70 tỷ đồng nguồn viện trợ không hoàn lại của Chính phủ Bỉ cho tỉnh Bình Thuận để thực hiện Dự án quản lý tổng hợp nguồn nước và phát triển đô thị trong mối liên hệ với biến đổi khí hậu.
- Nghị quyết về phân bổ ngân sách trung ương năm 2019:
Quốc hội thông qua tổng số thu ngân sách trung ương là 810.099 tỷ đồng; tổng số thu ngân sách địa phương là 601.201 tỷ đồng; tổng số chi ngân sách trung ương là 1.019.599 tỷ đồng, trong đó dự toán 321.354 tỷ đồng để bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu cho ngân sách địa phương... Phân bổ ngân sách trung ương năm 2019 theo từng lĩnh vực và chi tiết cho từng bộ, cơ quan trung ương, bổ sung cân đối ngân sách, bổ sung có mục tiêu và phân bổ vốn chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương chi tiết theo các phụ lục đính kèm Nghị quyết này.
Quốc hội giao Chính phủ thực hiện giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước và mức phân bổ ngân sách trung ương theo đúng quy định của pháp luật. Trong giai đoạn 2018-2020, thực hiện phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương nguồn thu phí sử dụng đường bộ thu qua đầu phương tiện ô tô theo tỷ lệ tương ứng là 65% và 35% để chi cho quản lý, bảo trì đường bộ. Chỉ đạo các bộ, cơ quan Trung ương và Ủy ban nhân dân các cấp quyết định giao dự toán thu, chi ngân sách nhà nước năm 2019 theo đúng Nghị quyết của Quốc hội đến từng cơ quan, đơn vị có nhiệm vụ thu, chi ngân sách nhà nước trước ngày 31/12/2018; thực hiện công khai, báo cáo kết quả phân bổ và giao dự toán ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; thực hiện sắp xếp các khoản chi để bảo đảm kinh phí thực hiện các nhiệm vụ quan trọng và các nhiệm vụ mới tăng thêm trong năm 2019; bố trí kinh phí đầy đủ cho các chính sách đã ban hành; phấn đấu tăng thu, tiết kiệm chi và sử dụng nguồn cải cách tiền lương của ngân sách địa phương còn dư (sau khi đã bảo đảm đủ nhu cầu cải cách tiền lương của địa phương) thực hiện các chế độ, chính sách an sinh xã hội. Đồng thời, Quốc hội giao Kiểm toán Nhà nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, tiến hành kiểm toán việc thực hiện phân bổ ngân sách trung ương đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
- Nghị quyết về điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020:
Quốc hội quyết định vốn vay trong nướcho phép các địa phương đượcđiều chỉnh tăng tổng mức vốn nước ngoài từ 300.000 tỷ đồng lên tối đa 360.000 tỷ đồng, đồng thời, điều chỉnh giảm tương ứng vốn vay trong nước để đáp ứng yêu cầu giải ngân đối với những dự án sử dụng vốn nước ngoài. Điều chỉnh giảm nguồn vốn cho các dự án quan trọng quốc gia 10.000 tỷ đồng (từ 80.000 tỷ đồng xuống 70.000 tỷ đồng). Sử dụng 10.000 tỷ đồng này để ưu tiên bố trí cho các dự án phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, gia cố hệ thống đê xung yếu, xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển, di dời dân cư khẩn cấp ra khỏi khu vực có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở đất. Số còn lại sử dụng để thanh toán nợ giải phóng mặt bằng một số dự án thuộc nghĩa vụ của ngân sách trung ương và hỗ trợ giải phóng mặt bằng một số dự án cấp bách cần triển khai ngay. Giao Chính phủ bảo đảm cân đối nguồn vốn, xây dựng danh mục, dự kiến mức vốn cho các dự án cụ thể, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Quốc hội cho phép sử dụng nguồn dự phòng chung trên cơ sở bảo đảm khả năng cân đối vốn đầu tư của ngân sách nhà nước hằng năm và giữ mức trần đầu tư công 2.000.000 tỷ đồng, giữ tỷ lệ bội chi, chỉ tiêu an toàn nợ công đã được Quốc hội quyết định. Cho phép các địa phương được giao kế hoạch đầu tư công hằng năm nguồn vốn trong cân đối ngân sách địa phương trên cơ sở khả năng thu thực tế, bảo đảm không tăng mức bội chi của ngân sách địa phương hằng năm, triển khai tổng kết vào cuối kỳ kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020. Giao Hội đồng nhân dân các cấp quyết định phân bổ vốn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nguồn ngân sách địa phương của cấp mình bảo đảm các nguyên tắc, thứ tự ưu tiên phân bổ vốn quy định tại Luật Đầu tư công và Nghị quyết số 26/2016/QH14 của Quốc hội.
Quốc hội quyết định bổ sung danh mục dự án sử dụng vốn ODA, vốn vay ưu đãi nước ngoài vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 để kịp thời triển khai thực hiện theo cam kết với nhà tài trợ. Bố trí 1.766,03 tỷ đồng vốn còn lại của chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững để phân bổ theo quy định và bổ sung 648,698 tỷ đồng từ nguồn dự phòng chung cho chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững để hỗ trợ cho các địa phương có huyện thoát nghèo tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 cho Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã của Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, dự án Cơ sở dữ liệu dân cư của Bộ Công an và dự án Đầu tư xây dựng Nút giao khác mức ngã ba Huế (Đà Nẵng) của Bộ Giao thông vận tải. Cho phép điều chỉnh hình thức đầu tư đối với một số dự án thuộc quy hoạch tuyến đường ven biển từ Quảng Ninh đến Nghệ An từ hình thức đối tác công tư (PPP) sang đầu tư công sử dụng ngân sách nhà nước. Giao Chính phủ xây dựng danh mục, làm rõ nguồn lực, dự kiến mức vốn cho các dự án cụ thể, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Cho phép sử dụng dự phòng để lại tại các bộ, cơ quan trung ương, địa phương để thực hiện nhiệm vụ lập, thẩm định, công bố các quy hoạch theo quy định của Luật Quy hoạch.
Quốc hội giao Chính phủ tăng cường các biện pháp thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; phòng, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật về đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Hoàn thiện danh mục dự án, dự kiến mức vốn bố trí cụ thể cho từng dự án sử dụng nguồn dự phòng chung nguồn ngân sách trung ương, bảo đảm tính chặt chẽ, minh bạch, công bằng, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định. Rà soát, hoàn chỉnh các thủ tục, điều kiện phân bổ vốn cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam; các dự án đường sắt đô thị của Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trình Quốc hội xem xét, quyết định. Chưa phân bổ nguồn vốn nước ngoài cho Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam, Tổng công ty Phát triển hạ tầng và Đầu tư tài chính Việt Nam.
Sau khi xem xét các báo cáo đánh giá giữa kỳ thực hiện các kế hoạch 5 năm 2016-2020 về kinh tế - xã hội, cơ cấu lại nền kinh tế, chương trình mục tiêu quốc gia, tài chính quốc gia; kết quả 3 năm thực hiện chính sách phát triển kinh tế - xã hội đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi, Quốc hội yêu cầu Chính phủ, các cấp, các ngành, địa phương tiếp tục phát huy mặt tích cực, đổi mới, sáng tạo, quyết liệt hơn nữa trong chỉ đạo, điều hành; phấn đấu cao nhất trong hai năm 2019-2020 để đạt và vượt các chỉ tiêu theo các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch 5 năm 2016-2020. Giao Chính phủ tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hình thức Đối tác công tư (PPP), trước mắt, chỉ đạo các bộ, ngành sớm có cơ chế giải quyết khó khăn, vướng mắc liên quan đến thanh toán cho nhà đầu tư dự án theo hình thức xây dựng - chuyển giao (BT); xây dựng Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) để thực hiện từ năm 2021.
3. Xem xét, thông qua các dự án luật, nghị quyết
Các dự án luật, nghị quyết trình Quốc hội tại kỳ họp nhằm tiếp tục thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Hiến pháp năm 2013, tạo sự đồng bộ và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về phát triển kinh tế, quyền con người, quyền công dân, chính sách giáo dục, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước, phòng, chống tham nhũng, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế… Trên cơ sở thảo luận, xem xét toàn diện, kỹ lưỡng, Quốc hội đã thông qua 9 luật, 01 nghị quyết và cho ý kiến về 6 dự án luật khác.
3.1. Về 9 dự án luật, 01 nghị quyết được Quốc hội thông qua
- Luật Chăn nuôi được ban hành nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất ngành chăn nuôi, tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập cho người dân, tạo giá trị kim ngạch xuất khẩu, ứng phó với biến đổi khí hậu.
Luật gồm 8 chương, 83 điều với những quy định cụ thể như: nguyên tắc hoạt động chăn nuôi; chiến lược phát triển chăn nuôi; chính sách của Nhà nước về chăn nuôi, trong đó có quy định rõ lĩnh vực được Nhà nước đầu tư, lĩnh vực Nhà nước hỗ trợ và lĩnh vực Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho hoạt động chăn nuôi; nguồn gen của giống và sản phẩm vật nuôi; sản xuất, mua bán giống vật nuôi và sản phẩm vật nuôi; khảo nghiệm, kiểm định dòng, giống vật nuôi; điều kiện cơ sở chăn nuôi, xử lý chất thải chăn nuôi; chăn nuôi động vật khác (chim yến, ong, hươu, vật nuôi trong gia đình...) và đối xử nhân đạo đối với vật nuôi; chế biến và thị trường sản phẩm vật nuôi để bảo đảm hoạt động theo chuỗi...
- Luật Trồng trọt được ban hành nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước trong hoạt động trồng trọt hiện nay và phù hợp với những đổi mới của hệ thống pháp luật hiện hành; tạo lập được nền sản xuất hàng hoá quy mô lớn, chất lượng và từng bước hiện đại hóa, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống nông dân.
Luật gồm 7 chương, 85 điều với những quy định cụ thể về: nguyên tắc hoạt động trồng trọt; chiến lược phát triển trồng trọt; chính sách của Nhà nước về trồng trọt, trong đó có quy định rõ lĩnh vực được Nhà nước đầu tư, lĩnh vực Nhà nước hỗ trợ và lĩnh vực Nhà nước khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư cho hoạt động trồng trọt. Giống cây trồng, trong đó quy định cụ thể về nghiên cứu, khai thác, sử dụng và bảo tồn nguồn gen giống cây trồng; công nhận lưu hành giống cây trồng; sản xuất và mua bán giống cây trồng; quản lý chất lượng giống cây trồng; xuất nhập khẩu giống cây trồng. Việc công nhận, lưu hành và khảo nghiêm phân bón; sản xuất, xuất, nhập khẩu phân bón; quản lý chất lượng, đặt tên và quảng cáo phân bón, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực phân bón. Việc sử dụng tài nguyên trong cach tác, sử dụng vật tư, trang thiết bị và vật tư nông nghiệp; phát triển vùng sản xuất hàng hóa tập trung, ứng dụng khoa học và công nghệ trong canh tác, canh tác hữu cơ và bảo vệ môi trường trong trồng trọt; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong hoạt động canh tác. Thu hoạch, sơ chế, bảo quản, chế biến, thương mại và quản lý chất lượng sản phẩm cây trồng để bảo đảm hoạt động theo chuỗi...
- Luật Bảo vệ bí mật nhà nước được xây dựng trên cơ sở kế thừa một số quy định của Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước; nội dung Luật thể hiện rõ tính ưu việt và tính khả thi trong thực tiễn, bảo đảm khắc phục những bất cập, hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về bảo vệ bí mật nhà nước, hạn chế tối đa tình hình lộ, mất thông tin, tài liệu, vật mang bí mật nhà nước… góp phần bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Luật gồm 5 chương, 28 điều, tập trung quy định những vấn đề lớn: xác định rõ phạm vi, phân loại danh mục và việc ban hành bí mật nhà nước; đồng thời, quy định cụ thể các hoạt động về sao, chụp, thống kê, lưu giữ, bảo quản, phổ biến, vận chuyển, giao nhận, cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước của cơ quan, tổ chức, cá nhân; về thời hạn bảo vệ và gia hạn bảo vệ bí mật nhà nước, đây là nội dung, chính sách mới so với pháp luật hiện hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn để công dân có cơ hội tiếp xúc, tiếp cận các nguồn thông tin, nâng cao vị thế quyền con người, quyền công dân được bảo đảm thực hiện theo quy định của Hiến pháp; mặt khác, làm rõ vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng bí mật nhà nước khi cung cấp, chuyển giao bí mật nhà nước cho cơ quan, tổ chức, công dân Việt Nam và nước ngoài; khi hội nghị, hội thảo, cuộc họp có nội dung bí mật nhà nước và khi tiêu hủy bí mật nhà nước.
- Luật Cảnh sát biển Việt Nam được xây dựng trên cơ sở kế thừa các quy định của Pháp lệnh lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; đồng thời, bổ sung nhiều nội dung quy định cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về tăng cường năng lực quốc phòng, an ninh trên biển đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam; khẳng định Cảnh sát biển Việt Nam là lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, làm nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển và chịu sự chỉ đạo, chỉ huy trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Luật gồm 8 chương, 41 điều, tập trung quy định những vấn đề lớn: xác định rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Cảnh sát biển Việt Nam, về nguyên tắc tổ chức, biện pháp công tác, quyền hạn, phạm vi hoạt động và các biện pháp thực thi pháp luật của lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam trên biển; về sử dụng vũ khí quân dụng, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và điều kiện được nổ súng trong thi hành nhiệm vụ; về trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chức năng thuộc các bộ, ngành có liên quan với lực lượng Cảnh sát biển Việt Nam; đồng thời, quy định rõ về hệ thống tổ chức, chế độ chính sách và định hướng ưu tiên nguồn lực để xây dựng Cảnh sát biển Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ các vùng biển Việt Nam.
- Luật Công an nhân dân được sửa đổi toàn diện, bổ sung nhiều nội dung quy định, cụ thể hóa quan điểm của Đảng làm cơ sở pháp lý để đổi mới, sắp xếp hệ thống tổ chức bộ máy và phân cấp thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ của Công an nhân dân bảo đảm tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở” và làm cơ sở cho việc điều chỉnh, sắp xếp, bố trí lực lượng, từng bước thực hiện tinh giản biên chế theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền; đồng thời, khắc phục những bất cập, hạn chế của Luật Công an nhân dân hiện hành, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, góp phần bảo vệ và xây dựng Tổ quốc trong tình hình mới.
Luật gồm 7 Chương, 46 điều; môt số nội dung lớn của Luật hiện hành đã được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung như: Phạm vi điều chỉnh bổ sung quy định về bảo đảm điều kiện hoạt động, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, trong đó, quy định rõ trách nhiệm của Chính phủ, của các bộ, ngành Trung ương, của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đối với nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội và xây dựng lực lượng Công an nhân dân; về thời hạn công dân thực hiện nghĩa vụ tham gia Công an nhân dân sửa đổi quy định từ 03 năm xuống còn 02 năm; bổ sung quy định việc kéo dài thời gian phục vụ tại ngũ trong một số trường hợp cho phù hợp, thống nhất với Luật nghĩa vụ quân sự; về chức năng nhiệm vụ và quyền hạn được sửa đổi, bổ sung một số quy định cho thống nhất với pháp luật có liên quan mới được ban hành và phù hợp với tình hình thực tiễn hoạt động của Công an nhân dân sau khi có sự thay đổi về mô hình, tổ chức; bỏ quy định việc thành lập Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; bổ sung nội dung mới giao Chính phủ quy định việc xây dựng Công an xã, thị trấn chính quy trong hệ thống tổ chức của Công an nhân dân để phù hợp với đặc điểm tình hình an ninh, trật tự tại địa bàn xã, thị trấn hiện nay; mặt khác, bỏ cấp trung gian, không quy định cấp Tổng cục; theo đó, không quy định cụ thể trong Luật các vị trí có cấp bậc hàm cấp Tướng mà chỉ quy định nguyên tắc, tiêu chí chặt chẽ và cụ thể số lượng vị trí cấp bậc hàm cấp Tướng để giao Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét, quy định cho phù hợp với Hiến pháp; đồng thời, bổ sung một số quy định về công nghiệp an ninh, về hạn tuổi phục vụ cao nhất của Hạ sĩ quan và nữ sĩ quan cấp Tướng trong Công an nhân dân.
- Luật Đặc xá được sửa đổi toàn diện, gồm 6 chương, 39 điều, trong đó, vẫn giữ nguyên hai phương thức thực hiện đặc xá là đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước và đặc xá trong trường hợp đặc biệt để đáp ứng yêu cầu đối nội, đối ngoại của đất nước. Về đặc xá nhân sự kiện trọng đại, ngày lễ lớn của đất nước đã tập trung sửa đổi, bổ sung về đối tượng được đề nghị đặc xá; quy định cụ thể hơn trình tự, thủ tục, thẩm quyền đề nghị đặc xá, thực hiện quyết định về đặc xá và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức trong việc thực hiện đặc xá...
- Luật Phòng, chống tham nhũng được sửa đổi toàn diện, gồm 11 chương, 97 điều với những sửa đổi quan trọng như: mở rộng phạm vi áp dụng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng đối với công ty đại chúng, tổ chức tín dụng và một số tổ chức xã hội có huy động đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện; mở rộng phạm vi đối tượng có nghĩa vụ kê khai tài sản, thu nhập; thu hẹp một bước Cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập; đồng thời, quy định cụ thể hơn quyền và nghĩa vụ của công dân, các tổ chức xã hội tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng; bảo vệ, khen thưởng người phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng…
Riêng về quy định “xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm giải trình không hợp lý về nguồn gốc”: Do đây là vấn đề mới, còn nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất nên Quốc hội đã quyết định không bổ sung nội dung này vào trong dự án Luật mà thực hiện theo quy định hiện hành và tăng cường hơn nữa các biện pháp bảo đảm thực hiện; theo đó, đối với tài sản, thu nhập do tham nhũng mà có thì tiến hành thu hồi hoặc tịch thu theo quy định của pháp luật; nếu chứng minh được có dấu hiệu trốn thuế thì xử lý theo quy định của pháp luật về thuế. Đồng thời, tăng cường chế tài xử lý hành vi kê khai tài sản, thu nhập, giải trình nguồn gốc tài sản, thu nhập tăng thêm không trung thực nghiêm khắc hơn so với quy định của Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học được ban hành để sửa đổi, bổ sung các quy định về: quản trị đại học; hoạt động đào tạo; quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo hướng phân định giữa quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học và quản trị trong mỗi cơ sở giáo dục đại học… Đồng thời, thay đổi cơ chế quản lý tài chính, tài sản bảo đảm thông thoáng và hiệu quả; thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học. Luật đã được sửa đổi, bổ sung với những điểm mới như:
+ Hoàn thiện hành lang pháp lý rõ ràng về quyền tự chủ và trách nhiệm giải trình để các cơ sở giáo dục đại học được chủ động, linh hoạt trong tổ chức bộ máy và nhân sự, tài chính, tài sản…phát huy sáng tạo, hiệu quả hơn trong đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị đại học để Hội đồng trường là cơ quan quản trị đảm bảo có thực quyền trong quyết định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển… quyết định nhân sự hiệu trưởng, chính sách chất lượng, tổ chức, tài chính và các vấn đề quan trọng khác của nhà trường;
+ Thay đổi cơ chế quản lý tài chính, tài sản đảm bảo thông thoáng và hiệu quả, phù hợp với từng loại hình cơ sở giáo dục đại học để tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục đại học thực hiện tự chủ; phân bổ ngân sách nhà nước gắn với tiêu chí phản ánh chất lượng và kết quả đầu ra để phát huy tính cạnh tranh giữa các cơ sở giáo dục đại học;
+ Thực hiện xã hội hóa giáo dục đại học, khuyến khích phát triển các cơ sở giáo dục đại học tư thục; ưu tiên các cơ sở giáo dục đại học tư thục hoạt động không vì lợi nhuận; có chính sách ưu đãi đối với các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân đầu tư vào hoạt động giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ tại các cơ sở giáo dục đại học; miễn, giảm thuế đối với tài sản hiến tặng, hỗ trợ cho giáo dục đại học, cấp học bổng và tham gia chương trình tín dụng sinh viên;
+ Sửa đổi, bổ sung các quy định về hoạt động đào tạo như chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, văn bằng… theo hướng thiết lập các tiêu chuẩn đào tạo của Việt Nam tiệm cận với chuẩn của khu vực và quốc tế đáp ứng sự dịch chuyển lao động tự do trong khu vực;
+ Sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý nhà nước về giáo dục đại học theo hướng phân định giữa quản lý nhà nước đối với giáo dục đại học và quản trị trong mỗi cơ sở giáo dục đại học; Nhà nước chỉ tập trung vào việc hoạch định chiến lược, quy hoạch; quy định các chuẩn chất lượng, kiểm định chất lượng, minh bạch thông tin, thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm; tăng cường dự báo, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về giáo dục đại học để phục vụ công tác xây dựng chính sách phát triển giáo dục đại học.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 luật có liên quan đến quy hoạch nhằm sửa đổi, bổ sung các Luật: Giao thông đường bộ, Hàng hải, Đường sắt, Giao thông đường thủy nội địa, Tài nguyên nước, Đất đai, Bảo vệ môi trường, Khoáng sản, Khí tượng thủy văn, Đa dạng sinh học, Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, Bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Đê điều, Thủy lợi, Năng lượng nguyên tử, Đo lường, Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, An toàn thông tin mạng, Xuất bản, Báo chí, Giáo dục quốc phòng và an ninh, Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Hải quan, Chứng khoán, Điện ảnh, Quảng cáo, Xây dựng, Quy hoạch đô thị, Dầu khí, Lao động, Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Phòng, chống bệnh truyền nhiễm, Giám định tư pháp và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất với các quy định của Luật Quy hoạch, đáp ứng yêu cầu về tiến độ có hiệu lực cùng với Luật Quy hoạch từ ngày 01/01/2019. Theo đó, Luật đã sửa đổi tên các quy hoạch để bảo đảm phù hợp với tên quy hoạch quốc gia, quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành theo quy định của Luật Quy hoạch; sửa đổi các luật có quy định về các loại quy hoạch không phù hợp với khái niệm quy hoạch được quy định tại Luật Quy hoạch; sửa đổi các quy định liên quan đến việc lập, thẩm định, quyết định hoặc phê duyệt, điều chỉnh một số quy hoạch; bãi bỏ quy định sử dụng quy hoạch làm điều kiện cấp phép kinh doanh sản phẩm, dịch vụ...
Quốc hội giao Chính phủ khẩn trương chuẩn bị, trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của các pháp lệnh có liên quan đến quy hoạch để bảo đảm thực hiện Luật Quy hoạch.
- Nghị quyết phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan: Việc phê chuẩn CPTPP có ý nghĩa quan trọng, không chỉ nhằm hoàn tất quy trình pháp lý để bảo đảm Hiệp định sớm có hiệu lực, mà còn thể hiện quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta trong việc chủ động hội nhập sâu rộng vào khu vực và thế giới, khẳng định vị thế và trách nhiệm của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế. Thông qua việc phê chuẩn này, Quốc hội nhận thức rõ trách nhiệm của mình tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm tương thích với các cam kết. Chính phủ chủ động nghiên cứu, quán triệt các nội dung của Hiệp định đến các cấp, các ngành, các địa phương và toàn xã hội; đồng thời, tổ chức triển khai thực hiện một cách có hiệu quả, tận dụng tối đa các cơ hội, lợi ích mà Hiệp định đem lại và có biện pháp bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của đất nước. Cộng đồng doanh nghiệp cần tích cực nghiên cứu, nắm chắc các quy định của CPTPP, đẩy mạnh cải tiến, đổi mới tổ chức và hoạt động, nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững và phát triển trong điều kiện mới.
3.2. Về 6 dự án luật được Quốc hội cho ý kiến
- Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia quy định các biện pháp phòng, chống tác hại của rượu, bia, bao gồm: biện pháp giảm mức tiêu thụ rượu, bia; biện pháp quản lý việc cung cấp rượu, bia; biện pháp giảm tác hại của rượu, bia; điều kiện bảo đảm cho phòng, chống tác hại của rượu, bia; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tác hại của rượu, bia.
- Luật Kiến trúc quy định về quản lý kiến trúc, hành nghề kiến trúc, quyền hạn, trách nhiệm và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiến trúc. Quốc hội đã tập trung thảo luận vào những nội dung chính như: tên gọi, phạm vi và đối tượng điều chỉnh; chính sách của Nhà nước trong phát triển kiến trúc; quản lý kiến trúc, nội dung của Quy chế quản lý kiến trúc, trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước và chính quyền địa phương các cấp trong việc quản lý, phối hợp giữa kiến trúc và văn hóa; quản lý hành nghề kiến trúc; chứng chỉ hành nghề kiến trúc; Hội đồng kiến trúc quốc gia; thi tuyển, tuyển chọn phương án thiết kế kiến trúc bảo đảm vừa phát huy tính sáng tạo, vừa bảo đảm tính truyền thống, phù hợp với đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền; bảo hộ quyền tác giả của kiến trúc sư; trách nhiệm của chủ đầu tư, chủ sở hữu công trình; chiến lược phát triển kiến trúc theo các giai đoạn phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa, quốc phòng của đất nước...
- Luật Giáo dục (sửa đổi) được trình Quốc hội theo hướng mở rộng phạm vi sửa đổi; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng mở, liên thông; xác định rõ các loại hình cơ sở giáo dục và chủ thể thành lập nhà trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, bổ sung nguyên tắc chuyển đổi loại hình trường; bổ sung, sửa đổi các chính sách đối với người dạy và người học, các quy định về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông... Những điểm mới cơ bản của dự thảo Luật:
+ Quy định về phổ cập giáo dục và phổ cập giáo dục bắt buộc; bổ sung trách nhiệm của Nhà nước, địa phương, gia đình, người giám hộ trong việc tạo điều kiện cho học sinh trong độ tuổi quy định được học tập để đạt trình độ giáo dục phổ cập bắt buộc; bổ sung quy định về giáo dục hòa nhập ở giáo dục mầm non, phổ thông.
+ Đối với người học, quy định chính sách tín dụng dành cho học sinh, sinh viên sư phạm; bổ sung quy định về việc hoàn trả chi phí đối với những trường hợp người học không có nhu cầu sử dụng tín dụng sư phạm nhưng ra trường vẫn làm trong ngành giáo dục; sửa đổi quy định về học phí, cơ chế thu và sử dụng học phí phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; sửa đổi chế độ đào tạo cử tuyển theo hướng Nhà nước dành riêng chỉ tiêu cử tuyển đối với các dân tộc thiểu số rất ít người ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; giữ quy định về dự thi và cấp bằng tốt nghiệp trung học phổ thông; bổ sung quy định về việc cấp giấy chứng nhận hoàn thành chương trình giáo dục phổ thông theo yêu cầu của học sinh.
+ Đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, quy định việc nâng trình độ chuẩn được đào tạo của giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giảng viên giảng dạy trình độ đại học và giảng viên giảng dạy, hướng dẫn luận văn thạc sĩ để đảm bảo chất lượng đào tạo, giảng dạy; sửa đổi quy định về chính sách lương đối với nhà giáo theo hướng ưu tiên có tính đến đặc thù nghề nghiệp, ưu đãi nhà giáo công tác tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.
+ Về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, phát triển quan điểm về nền giáo dục quốc dân với tính chất là nhân dân, dân tộc, khoa học và hiện đại, nâng một số quy định trong Nghị quyết số 88/2014/QH13 về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông thành các quy định của Luật. Dự thảo Luật đã luật hóa các quy định về tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; việc lựa chọn, sử dụng sách giáo khoa; sách giáo khoa điện tử, học liệu; quy định về Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục, sách giáo khoa; bổ sung quy định thực hiện giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh; quy định việc thực nghiệm một số nội dung, phương thức giáo dục mới trong cơ sở giáo dục phổ thông; quy định việc in, phát hành sách giáo khoa nhằm tránh độc quyền và bảo đảm việc ổn định trong việc phát hành sách giáo khoa.
+ Về quản lý giáo dục, sửa đổi, bổ sung quy định nhằm làm rõ hơn giữa quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục; phát huy dân chủ ở các trường mầm non và phổ thông và tự chủ ở các trường cao đẳng, đại học.
+ Về đầu tư, tài chính trong giáo dục, quy định cụ thể và phân loại các nguồn tài chính cho giáo dục; quy định rõ tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước cho giáo dục bảo đảm tối thiểu 20% tổng chi ngân sách nhà nước; quy định ngân sách nhà nước đảm bảo chi cho việc thực hiện phổ cập giáo dục; trách nhiệm của cơ quan tài chính các cấp trong việc đảm bảo đủ kinh phí để thực hiện phổ cập giáo dục.
Đây là dự án Luật rất quan trọng, với rất nhiều vấn đề được dư luận xã hội đặc biệt quan tâm, được Quốc hội xem xét, thông qua theo trình tự 03 kỳ họp. Quốc hội giao Chính phủ tổ chức lấy ý kiến rộng rãi Nhân dân về dự án Luật, tổng hợp ý kiến Nhân dân trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 01/2019, làm căn cứ sửa đổi các quy định của Luật bảo đảm hợp lý, có tính khả thi cao trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 7.
- Luật Quản lý thuế (sửa đổi) được Quốc hội tập trung thảo luận về nhiều nội dung như: phạm vi điều chỉnh; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ trong quản lý thuế; các trường hợp được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, xóa nợ tiền thuế; cung cấp dịch vụ đại lý thuế; nguyên tắc về quản lý thuế, hóa đơn, chứng từ; kê khai thuế; nộp thuế; xử lý vi phạm pháp luật về thuế; tuyên truyền, hỗ trợ người nộp thuế...
- Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) được Quốc hội tập trung thảo luận về các nội dung như: phạm vi điều chỉnh; thời gian thông qua; quy định quyền, nghĩa vụ của phạm nhân; chế độ lao động của phạm nhân và tổ chức cho phạm nhân lao động; tổ chức khu sản xuất, điểm lao động và tổ chức dạy nghề ngoài trại giam; tha tù trước thời hạn có điều kiện; thi hành án hình sự đối với pháp nhân thương mại;... Quốc hội quyết định mở rộng phạm vi sửa đổi, bổ sung và đổi tên dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự thành Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi).
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công được Quốc hội đã tập trung thảo luận về nhiều nội dung như: phạm vi sửa đổi; phân loại và quy trình, thủ tục với từng loại nguồn vốn đầu tư công; tiêu chí phân loại dự án đầu tư quan trọng quốc gia; phân cấp thẩm quyền của các cơ quan trong thẩm định nguồn vốn, phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư, điều chỉnh dự án; thẩm quyền, quy trình lập, phê duyệt, giao kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn và hằng năm... Quốc hội giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉ đạo để tiếp thu, giải trình nghiêm túc và hoàn thiện dự án Luật để gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội và các vị đại biểu Quốc hội, sau đó tiếp tục hoàn thiện và sẽ trình ra Quốc hội xem xét quyết định tại kỳ họp thứ 7.
3.3. Việc thực hiện Nghị quyết số 30/2016/QH14 ngày 22/11/2016 của Quốc hội về thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam
Quốc hội đánh giá cao tinh thần trách nhiệm, sự khẩn trương, tích cực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, việc tổ chức thực hiện của các bộ, ngành, cơ quan chức năng từ xây dựng cơ chế, chính sách, tạo cơ sở pháp lý đến việc đầu tư, bố trí nhân lực, vật lực và các điều kiện đảm bảo cần thiết khác để kịp thời triển khai thi hành Nghị quyết theo đúng thời gian Quốc hội giao. Quốc hội cũng nhận thấy, việc thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử đã đạt được những kết quả tích cực cả về đối ngoại và quốc phòng, an ninh, góp phần quan trọng trong xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Trên cơ sở Báo cáo thẩm tra, ý kiến thảo luận, đánh giá sâu về những ưu điểm, tồn tại, hạn chế và nguyên nhân, Quốc hội đồng ý cho phép Chính phủ kéo dài thời gian thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam theo Nghị quyết số 30/2016/QH14 trong thời gian 2 năm kể từ ngày 01/02/2019. Theo đó, giao Chính phủ chỉ đạo làm tốt công tác tuyên truyền và nghiên cứu, rà soát Danh mục các nước được áp dụng, các cửa khẩu được nhập cảnh bằng thị thực điện tử để bảo đảm chặt chẽ, hợp lý; đồng thời, khẩn trương tổng kết, đánh giá việc thi hành Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh và cư trú của người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam để báo cáo, trình Quốc hội xem xét, sửa đổi, bổ sung Luật này.
3.4. Quốc hội đã giao Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cơ quan liên quan xây dựng kế hoạch, khẩn trương tổ chức triển khai thực hiện các luật, nghị quyết vừa được Quốc hội thông qua, sớm ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, góp phần đưa luật sớm đi vào cuộc sống. Các cơ quan của Quốc hội thường xuyên giám sát việc thi hành luật; đồng thời có kế hoạch phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, chỉnh lý hoàn thiện các dự án luật đã được Quốc hội cho ý kiến, bảo đảm chất lượng trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp sau.
4. Chất vấn và trả lời chất vấn
Quốc hội đã xem xét các báo cáo và tiến hành chất vấn và trả lời chất vấn về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ 4. Đây được coi như một cuộc sơ kết đánh giá giữa nhiệm kỳ, thể hiện thái độ, trách nhiệm của Quốc hội trong việc giám sát đến cùng đối với những vấn đề quan trọng của đất nước, những vấn đề cử tri và Nhân dân quan tâm.
Nội dung chất vấn có phạm vi rộng, nhiều chất vấn của đại biểu liên quan đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành ở hầu hết các lĩnh vực của cả khối hành pháp và tư pháp. Tổng cộng có 135 đại biểu đặt câu hỏi chất vấn và 82 lượt đại biểu tranh luận. Các thành viên Chính phủ, trong đó 02 Phó Thủ tướng Chính phủ, 19 Bộ trưởng, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã trực tiếp trả lời chất vấn các vấn đề thuộc trách nhiệm quản lý, điều hành. Cuối phiên chất vấn, Thủ tướng Chính phủ đã phát biểu làm rõ một số nội dung thuộc trách nhiệm của Chính phủ và trả lời một số chất vấn của đại biểu.
Các đại biểu đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao, nghiên cứu kỹ các báo cáo, đặt câu hỏi ngắn gọn, rõ ràng, đi thẳng vào vấn đề. Các thành viên Chính phủ, Trưởng ngành cơ bản đã trả lời rõ, thẳng thắn về kết quả đạt được, hạn chế, yếu kém, chỉ rõ nguyên nhân, nhận trách nhiệm và đề ra các giải pháp cụ thể để khắc phục.
Quốc hội ghi nhận những nỗ lực, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành trong công tác chỉ đạo, điều hành và trách nhiệm của các vị đại biểu trong việc giám sát, theo dõi việc thực hiện cac yêu cầu của Quốc hội. Đồng thời, đề nghị các thành viên Chính phủ, Trưởng ngành nghiên cứu tiếp thu đầy đủ, nghiêm túc ý kiến của đại biểu, ý kiến của cử tri và Nhân dân gửi đến các kỳ họp, thực hiện các giải pháp có hiệu quả, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và khắc phục những tồn tại, hạn chế trong từng lĩnh vực để báo cáo Quốc hội tại các kỳ họp sau.
5. Lấy phiếu tín nhiệm
Quốc hội đã hoàn thành việc lấy phiếu tín nhiệm đối với 48 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Việc lấy phiếu tín nhiệm đã được triển khai một cách thận trọng, nghiêm túc, theo đúng nội dung, quy trình, thủ tục của Nghị quyết số 85/2014/QH13. Đây là kết quả của một quá trình chuẩn bị chu đáo và trách nhiệm; xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia vào quá trình lấy phiếu tín nhiệm. Với ý thức trách nhiệm cao, các vị đại biểu Quốc hội đã dành thời gian nghiên cứu, nắm bắt thông tin, thảo luận, đánh giá một cách công tâm, khách quan mức độ tín nhiệm của các vị được Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm đã phản ánh tương đối khách quan quá trình thực hiện nhiệm vụ của những người được lấy phiếu tín nhiệm. Đây là cơ sở để người được lấy phiếu tín nhiệm tiếp tục phát huy kết quả đạt được, nghiêm túc rút kinh nghiệm, khắc phục hạn chế, hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và Nhân dân giao phó.
6. Xem xét các báo cáo công tác của các cơ quan Nhà nước và các báo cáo khác theo quy định
- Quốc hội đã dành thời gian thỏa đáng xem xét các báo cáo về công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng
Quốc hội bày tỏ sự nhất trí cao với nội dung các báo cáo và cho rằng, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chủ động tập trung chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, có nhiều chuyển biến tích cực, đạt và vượt nhiều chỉ tiêu theo quy định của các Nghị quyết của Quốc hội; góp phần giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo tiền đề quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, góp phần bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân và hội nhập quốc tế của nước ta. Tuy nhiên, Quốc hội cũng thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các công tác này. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã đưa ra nhiều biện pháp, giải pháp thiết thực nhằm tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các công tác này trong thời gian tới.
- Quốc hội đã nghe và thảo luận các báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018: Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan trong giải quyết kiến nghị của cử tri, mặc dù số đơn thư tiếp nhận và xử lý năm 2018 tăng so với năm 2017. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức tới công tác tiếp công dân, chưa làm hết trách nhiệm, chưa kịp thời trong giải quyết khiếu nại, tố cáo dẫn đến hạn chế nhất định về chất lượng giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu làm phát sinh khiếu nại, tố cáo là công tác quản lý nhà nước trong một số lĩnh vực còn bất cập, chưa đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân; một số chính sách pháp luật chưa phù hợp thực tiễn, tính ổn định chưa cao. Qua thảo luận, Quốc hội tán thành với nhiều giải pháp, kiến nghị được nêu, trong đó, kiến nghị thêm những giải pháp then chốt cần thực hiện ngay, những giải pháp cơ bản, lâu dài nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, đồng thời, nhấn mạnh đến giải pháp về ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia trong công tác này.
- Quốc hội đã nghe và cơ bản tán thành Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIV:
Quốc hội cho rằng, về cơ bản, Báo cáo đã phản ánh khá bao quát, toàn diện tình hình 2.115 khiếu nại của cử tri[1] liên quan đến hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,... Báo cáo đã chỉ ra một số kết quả nổi bật trong giải quyết khiếu nại cử tri từ đầu nhiệm kỳ đến nay như: Giải quyết các kiến nghị thuộc lĩnh vực nông nghiệp, an sinh xã hội, việc làm, tinh giản bộ máy, cải cách thủ tục hành chính, về thanh tra, xử lý vi phạm; phòng, chống tham nhũng đã đạt nhiều kết quả tích cực, được cử tri ghi nhận, một số vụ việc đặc biệt nghiêm trọng đã được xử lý như vụ AVG, vi phạm đất đai ở Đà Nẵng, cảng Quy Nhơn, Khu đô thị Thủ Thiêm, vụ đánh bạc trên Internet,... Bên cạnh đó, Báo cáo còn chỉ ra một số tồn tại, hạn chế trong giải quyết khiếu nại cử tri như: chống “tham nhũng vặt” còn chưa thực sự hiệu quả, tình hình tai nạn giao thông vẫn diễn biến phức tạp, số các vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng gia tăng, thoát nghèo còn thiếu bền vững, nhiều chính sách giảm nghèo còn chồng chéo nên kết quả đạt được chưa tương xứng,tình trạng ban hành văn bản trái luật chưa được xử lý dứt điểm; một số vấn đề cử tri phản ánh thuộc lĩnh vực giáo dục còn chưa được giải quyết thấu đáo nên cử tri tiếp tục có kiến nghị.
Quốc hội[2] đã tập trung đánh giá mặt được, chưa được, trong thực hiện công tác giải quyết, trả lời kiến nghị cử tri như: việc tổng hợp, tập hợp kiến nghị cử tri tại các Đoàn đại biểu Quốc hội, việc tiếp công dân định kỳ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, và tình trạng ban hành các văn bản không đúng quy định pháp luật cả về nội dung và thẩm quyền ban hành,... Từ đó, đề ra các giải pháp thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn cho công tác này trong thời gian tới.
- Các báo cáo gửi đại biểu Quốc hội tự nghiên cứu: Các vị đại biểu Quốc hội đã chủ động dành thời gian nghiên cứu khối lượng lớn các báo cáo gửi để có thêm thông tin và kết hợp thảo luận với các nội dung có liên quan hoặc gửi ý kiến, kiến nghị bằng văn bản để cơ quan trình nghiên cứu, tiếp thu. Qua đó, nâng cao chất lượng các quyết định của Quốc hội. Tại kỳ họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã báo cáo Quốc hội về việc xử lý kỷ luật đối với ông Nguyễn Bắc Son, nguyên Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
+ Đối với Báo cáo của Chính phủ về kết quả 2 năm (2017-2018) thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020: Quốc hội cơ bản thống nhất với đánh giá của Chính phủ, ý kiến thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội và cho rằng, những kết quả đạt được tiếp tục khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nỗ lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, chưa đồng đều, tiến độ thực hiện một số nhiệm vụ còn chậm. Đề nghị Chính phủ trong 2 năm tới chỉ đạo các địa phương giải quyết dứt điểm số hộ nghèo là gia đình có công với cách mạng; không cắt giảm, điều chỉnh nguồn lực cho giảm nghèo; thực hiện tốt hơn những chính sách đã ban hành, hoàn thành việc rà soát, tích hợp hệ thống chính sách, không ban hành chính sách mới chưa được dự toán; nghiên cứu nguồn lực để đầu tư trở lại cho đồng bào các tỉnh bị ảnh hưởng bởi các công trình thủy điện lớn, chú trọng đầu tư cho hạ tầng giao thông tới thôn, bản; tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị, hạn chế tư tưởng trông chờ, ỷ lại; đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành, nhất là ở địa phương.
+ Đối với Báo cáo của Chính phủ về thực hiện mục tiêu bình đẳng giới: Năm 2017 đã có một số hoạt động nổi bật được triển khai đó là việc Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và Tổng kết 10 năm thực hiện Luật bình đẳng giới. Việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới còn nhiều khó khăn đã đặt ra trong nhiều năm, đó là số liệu thống kê đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu chưa đảm bảo; hạn chế về nguồn lực; định kiến giới và bạo lực, xâm hại đối với phụ nữ và trẻ em gái còn tiếp diễn.  Trên cơ sở đánh giá những kết quả đạt được, khó khăn, hạn chế, Quốc hội đề nghị, đẩy nhanh việc thực hiện Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 02/7/2018 điều chỉnh, bổ sung một số nội dung của Chiến lược quốc gia về BĐG giai đoạn 2011-2020; thúc đẩy hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng giới và lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và trong xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; quan tâm xây dựng nguồn cán bộ nữ và các chính sách cho lao động nữ; đẩy mạnh các giải pháp nhằm xóa bỏ các khoảng cách giới đối với đồng bào dân tộc thiểu số trong lĩnh vực giáo dục, y tế, hôn nhân và gia đình; thúc đẩy giải quyết những hạn chế trong công tác thống kê giới và tăng cường tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn ngân sách cho công tác bình đẳng giới.
+ Đối với Báo cáo về bảo hiểm y tế: Quốc hội cơ bản thống nhất với đánh giá của Chính phủ, ý kiến thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội về việc quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm y tế năm 2017. Quỹ bảo hiểm y tế được sử dụng hợp lý, hiệu quả, góp phần bảo đảm quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế cũng như điều kiện hoạt động của các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế. Tuy nhiên, vẫn còn một số hạn chế, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về bảo hiểm y tế, trong phát triển đối tượng, trong công tác tạm ứng và thanh quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế và cân đối quỹ bảo hiểm y tế. Đề nghị Chính phủ tổ chức đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo hiểm y tế làm căn cứ để kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật bảo hiểm y tế và các Luật khác có liên quan, tiếp tục quan tâm đến công tác phát triển đối tượng, thực hiện các biện pháp hiệu quả để kiểm soát, quản lý và sử dụng Quỹ bảo hiểm y tế, nghiên cứu để có lộ trình tăng mức đóng bảo hiểm y tế theo quy định tại Điều 13 Luật bảo hiểm y tế.
7. Nghị quyết kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV
Quốc hội đã thông qua Nghị quyết kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV, trong đó đã đánh giá tổng quan về kết quả kỳ họp và quyết định một số vấn đề: điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019; kéo dài thời gian thực hiện thí điểm cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài nhập cảnh Việt Nam theo Nghị quyết số 30/2016/QH14 trong thời gian hai năm kể từ ngày 01/2/2019; giao Chính phủ triển khai xây dựng chiến lược sử dụng đất quốc gia đến năm 2045; tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế, chính sách để triển khai thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045…
Nhìn chung, kỳ họp thứ 6 diễn ra với không khí làm việc sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ, trách nhiệm, hoàn thành khối lượng lớn chương trình đề ra, bảo đảm chất lượng, hiệu quả. Kết quả kỳ họp  tiếp tục khẳng định tinh thần làm việc tận tụy, sự chuẩn bị công phu, nghiêm túc, trách nhiệm của các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan hữu quan; sự tham gia tích cực, đóng góp nhiều ý kiến tâm huyết của các vị đại biểu Quốc hội; sự quan tâm đặc biệt của các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; sự tham gia, đưa tin kịp thời, đầy đủ của các cơ quan thông tấn, báo chí trong và ngoài nước./.
(Nguồn: Đề cương báo cáo kết quả kỳ họp của Tổng thư ký Quốc hội).
 
 
[1] Đã có 1.383 cuộc tiếp xúc cử tri, tổng hợp được 2.099 khiếu nại đã chuyển đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
[2] Đã 04 ĐBQH phát biểu, trao đổi, đề cập đến nội dung trong Báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 5 là: Nguyễn Bá Sơn (Đà Nẵng) về số liệu giải quyết, trả lời KNCT của Đoàn ĐBQH Đà Nẵng; Nguyễn Thanh Hải (Hòa Bình) trao đổi lại khẳng định các kiến nghị của cử tri Đà Nẵng đã được Ban Dân nguyện tổng hợp đầy đủ chuyển tới các cơ quan có thẩm quyền giải quyết; Quách Thế Tản (Hòa Bình) về tăng cường trách nhiệm tiếp công dân; Ma Thị Thúy (Tuyên Quang) về việc ban hành văn bản trái pháp luật.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây